Chất Lượng Quản Trị Tài Sản Nợ, Tài Sản Có Của Ngân Hàng Thương Mại


cân xứng về kì hạn TSC và TSN của ngân hàng kết hợp với sự biến động của lãi suất thị trường. Như vậy, một trong những biện pháp quan trọng để phòng ng a rủi ro lãi suất là các NHTM phải tích cực duy trì sự cân xứng về kì hạn TSC và TSN. Về mặt lí thuyết, sự cân xứng về kì hạn có thể đạt được bằng cách khi có một khoản vốn huy động mới tăng thêm, lập tức ngân hàng phải sử dụng nguồn này để cho vay với kì hạn tương xứng, hoặc khi khách hàng có nhu cầu vay dài hạn, chẳng hạn 5 năm, ngân hàng cũng phải lập tức huy động vốn với kì hạn 5 năm để tài trợ khoản cho vay này. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện theo cách như vậy là vô cùng khó khăn và sẽ gây tốn kém không nhỏ cho ngân hàng nên các ngân hàng thường theo hướng hạn chế sự không cân xứng kì hạn bằng cách thường xuyên điều chỉnh cơ cấu kì hạn bảng cân đối kế toán. Chẳng hạn, nếu một NHTM có chênh lệch thời

lượng dương

(DA -DL .k) 0 , ngân hàng đó có thể tăng kì hạn của TSN bằng cách

phát hành các công cụ nợ với kì hạn dài, hoặc giảm bớt kì hạn của TSC bằng cách hạn chế cho vay dài hạn, bán bớt các chứng khoán dài hạn và đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn,... Tuy nhiên, việc điều chỉnh cơ cấu kì hạn theo cách truyền thống như vậy đôi khi cũng tốn kém chi phí cho ngân hàng.

Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, các NHTM có xu hướng ngày càng sử dụng nhiều hơn nghiệp vụ chứng khoán hóa để điều chỉnh cơ cấu kì hạn bảng cân đối kế toán của mình. Chứng khoán hóa tài sản là việc ngân hàng mang bán TSC nội bảng chưa đến hạn thanh toán cho những người đầu tư dưới hình thức phát hành chứng khoán. Nghiệp vụ chứng khoán hóa đòi hỏi ngân hàng phải dành riêng một nhóm các tài sản sinh lời, như các khoản cho vay thế chấp hoặc cho vay tiêu dùng, thanh lí các khoản cho vay đó, chuyển hạch toán ngoại bảng và bán ra thị trường các chứng khoán được phát hành trên những tài sản đó thông qua trung gian là người được ủy thác, thường là tổ chức chuyên nghiệp về phát hành chứng khoán. Đồng thời ngân hàng thiết lập cam kết với người được ủy thác nhằm đảm bảo an toàn khoản tín dụng do chính ngân hàng đã cho vay và tiếp tục quản trị khoản tín dụng này. Khi người đi vay hoàn trả vốn vay và lãi cho ngân hàng, ngân hàng sẽ chuyển khoản thanh toán này cho người sở hữu những chứng khoán nói trên.


c2. Biện pháp ngo i bảng

Để kiểm soát được rủi ro lãi suất nằm trong hạn mức, ngoài các biện pháp nội bảng còn có thể sử dụng các công cụ phái sinh, như: Hợp đồng kì hạn, Hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền lãi suất, hợp đồng hoán đổi lãi suất.

1.2. CHẤT LƯỢNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN NỢ, TÀI SẢN CÓ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

1.2.1. Quan điểm về chất lượng quản trị tài sản Nợ, tài sản Có của ngân hàng thương mại

Chất lượng là một khái niệm quá quen thuộc với loài người ngay t những thời cổ đại, tuy nhiên chất lượng cũng là một khái niệm gây nhiều tranh cãi.

Giải pháp nâng cao chất lượng quản trị tài sản nợ, tài sản có tại ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn Việt Nam - 4

Tùy theo đối tượng sử dụng, t "chất lượng" có ý nghĩa khác nhau. Người sản xuất coi chất lượng là điều họ phải làm để đáp ứng các qui định và yêu cầu do khách hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận. Chất lượng được so sánh với chất lượng của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các chi phí, giá cả. Do con người và nền văn hóa trên thế giới khác nhau, nên cách hiểu của họ về chất lượng và đảm bảo chất lượng cũng khác nhau.

Nói như vậy không phải chất lượng là một khái niệm quá tr u tượng đến mức người ta không thể đi đến một cách diễn giải tương đối thống nhất, mặc dù sẽ còn luôn luôn thay đổi. Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS 9000:2000, đã đưa ra khái niệm sau:

“Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, một hệ thống hay một quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan".

T định nghĩa trên ta rút ra một số đặc điểm sau đây của khái niệm chất lượng:


Thứ nh t, chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm vì lí do nào đó mà không đáp ứng được nhu cầu thì phải bị coi là có chất lượng kém, cho dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà quản trị chất lượng định ra chính


sách, chiến lược kinh doanh của mình.


Thứ hai, do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn luôn biến động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không gian, điều kiện sử dụng.

Thứ ba, khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phải xét đến các đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu này không chỉ t phía khách hàng mà còn t các bên có liên quan, ví dụ như các yêu cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội.

Thứ tư, nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các qui định, tiêu chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể cảm nhận chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được chúng trong quá trình sử dụng.

Thứ năm, chất lượng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà ta vẫn hiểu hàng ngày. Chất lượng có thể áp dụng cho một hệ thống, một quá trình.

Như vậy, nếu áp dụng khái niệm chất lượng sản phẩm trên cho một quá trình thì có thể hiểu: Chất lượng ALM của NHTM là tập hợp những yếu tố cơ bản để thực hiện quá trình ALM tốt nhất nhằm đạt được các mục tiêu ALM của ngân hàng.

Trong đó, những yếu tố thuộc tính cơ bản của ALM của ngân hàng gồm:


- Chính sách ALM


Bất kì hoạt động nào trong ngân hàng cũng cần phải đặt ra những nguyên tắc, qui định làm cơ sở cho quá trình thực hiện. Các chính sách đó cần phải được văn bản hóa và phổ biến tới tất cả những đơn vị, bộ phận và nhân viên có trách nhiệm tham gia thực hiện. Do vậy, để LM đạt chất lượng cao thì ngân hàng cũng cần phải đưa ra được chính sách ALM một cách đầy đủ, rõ ràng. Mục đích chính của chính sách ALM của ngân hàng là: Phác thảo phạm vi và trách nhiệm của ALCO; nhận diện, đo lường và quản trị những rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt thuộc phạm vi của LM; đưa ra những hướng dẫn phù hợp với các qui chế, qui định của pháp luật hiện hành; đảm bảo sự phù hợp, đồng bộ với các chính sách khác


của ngân hàng (như chính sách đầu tư, tín dụng, vốn, …) và cuối cùng là đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ với việc quản trị tài chính của ngân hàng. Như vậy có thể thấy, chính sách ALM như một khung pháp lí để thực hiện quá trình ALM của ngân hàng mà nếu thiếu thì quá trình này sẽ không có cơ sở để thực hiện hoặc chính sách này không hợp lí, không thường xuyên cập nhật thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng ALM của ngân hàng, làm cho quá trình LM không đạt được các mục tiêu của nó.

- Cơ c u tổ chức ALM


Thực chất việc quản trị rủi ro nói chung và ALM nói riêng không chỉ là trách nhiệm của các bộ phận quản trị rủi ro mà là trách nhiệm của toàn bộ cán bộ nhân viên trong ngân hàng t giao dịch viên ra quyết định hàng ngày cho đến bộ phận back office. Hoạt động quản trị rủi ro thực hiện ở tất cả các cấp (t các nhân viên giao dịch, các lãnh đạo phòng ban/chi nhánh, khối quản trị rủi ro, BĐH và HĐQT). Giao dịch viên quản trị rủi ro ở tầm vi mô, khối quản trị rủi ro ở tầm vĩ mô (xét trên tổng thể ngân hàng, tất cả các tài sản, các rủi ro), HĐQT ở tầm chiến lược.

Do vậy, để nâng cao chất lượng ALM cần phải thiết lập được một cơ cấu tổ chức quản trị chặt chẽ, trong đó qui định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cho mỗi cấp và phải có sự phối kết hợp giữa các cấp với nhau để cùng hướng tới mục tiêu chung của ngân hàng.

Thực tế tại các ngân hàng, các quyết định ALM cần được phối hợp với các đơn vị hoạt động kinh doanh có liên quan và phải được thực thi một cách hiệu quả. Điều này đòi hỏi việc thành lập một cấu trúc thể chế chính thức chịu trách nhiệm về ALM. Trong hầu hết các ngân hàng, cấu trúc này thường là một ALCO, các thành viên trong đó phải bao gồm các nhà quản trị, điều hành cấp cao của tất cả các phòng ban các cấp có liên quan.

- Qui trình ALM


Việc xác định một qui trình LM hợp lí sẽ giúp cho ngân hàng đạt được mục tiêu một cách tốt nhất. Qui trình LM phải mô tả được công việc, phân định quyền, trách nhiệm cho mỗi bộ phận tham gia vào qui trình kể t khâu đầu tiên là xác định


phạm vi, mục tiêu cần quản trị, trên cơ sở đó tiến hành thu thập thông tin đầu vào và xử lí thông tin cho đến khâu cuối cùng là các thông tin đầu ra là các báo cáo làm cơ sở cho việc ra quyết định của các nhà quản trị. Có như vậy sẽ giúp cho t ng bộ phận, t ng người có trách nhiệm thực hiện trong qui trình hiểu rõ được vai trò, trách nhiệm, công việc của mình cần phải làm là gì, tạo sự phối hợp giữa các bộ phận với nhau trong quá trình tác nghiệp. Qui trình LM được thiết kế rõ ràng cũng là cơ sở để thực hiện kiểm soát nội bộ nhằm đánh giá tính hợp lí, khoa học và hiệu quả của qui trình, đánh giá việc tuân thủ qui trình, t đó sẽ góp phần hoàn thiện qui trình và nâng cao chất lượng LM.

- Hệ thống th ng tin ALM


Thông tin có một vai trò hết sức to lớn trong quản trị ngân hàng nói chung và

LM nói riêng. Để các hoạt động quản trị có chất lượng thì điều không thể thiếu được là phải xây dựng một hệ thống thông tin tốt, bởi thông tin đầy đủ, chính xác, hữu ích sẽ là cơ sở cho việc ra quyết định của các nhà quản trị, điều hành. Để có được thông tin phục vụ cho quá trình quản trị, các ngân hàng cần đầu tư xây dựng hệ thống thông tin. Đó là một hệ thống bao gồm các yếu tố có quan hệ với nhau cùng làm nhiệm vụ thu thập, xử lí, lưu trữ và phân phối thông tin, dữ liệu và cung cấp một cơ chế phản hồi để đạt được một mục tiêu định trước. Hệ thống thông tin có thể được thiết kế theo các mô hình khác nhau như: mô hình thông tin tập trung, mô hình thông tin trực tiếp, mô hình thông tin phân tán và mô hình thông tin kết hợp. Mỗi mô hình thông tin đều có những ưu, nhược điểm và điều kiện áp dụng riêng của nó. Chính vì vậy mỗi tổ chức, ngân hàng cần phải lựa chọn mô hình thông tin phù hợp và có hiệu quả nhất cho mình.

1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng quản trị tài sản Nợ, tài sản Có của ngân hàng thương mại

Để đánh giá chất lượng ALM, trước tiên cần đánh giá xem NH đã hội tụ được các yếu tố cơ bản và chất lượng của các yếu tố đó như thế nào để thực hiện được quá trình LM, đồng thời đánh giá xem quá trình LM có đạt được những


mục tiêu đặt ra hay không, đạt ở mức độ nào. LM được coi là đạt chất lượng cao nếu hoàn thiện được các yếu tố cơ bản của quá trình ALM và các mục tiêu đặt ra đều được thực hiện một cách tốt nhất. Cụ thể, có để đánh giá chất lượng ALM qua các tiêu chí sau:

1.2.2.1. Đánh giá chất lượng các yếu tố của quá trình ALM

Theo văn bản qui định của Basel - Các nguyên tắc tăng cường quản trị doanh nghiệp trong ngân hàng, Tháng 10/2010, đánh giá chất lượng các yếu tố của quá trình ALM cần tập trung đánh giá những yếu tố cơ bản trên những khía cạnh sau:

- Chính sách LM có được xây dựng và truyền đạt hướng dẫn thực hiện một cách có hiệu quả hay không. Trong chính sách LM có bao quát được hết các khía cạnh, nội dung thuộc chức năng của ALM hay không.

- Sự hợp lí của tổ chức bộ máy ALM: Đánh giá tính hợp lí của tổ chức bộ máy ALM cần xem xét trên các mặt sau:

+ Việc thành lập các bộ phận có phù hợp với chiến lược tổng thể và chính sách ALM hay không?

+ Có sự phân chia vai trò, trách nhiệm cụ thể cho các bộ phận hay không? Sự phân chia đó có đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả hay không?

+ Có đảm bảo tính độc lập và tập trung trong việc thực hiện ALM hay không.


Cơ cấu tổ chức ALM có linh hoạt không? Tức là nhạy bén trong phân chia nhiệm vụ, cán bộ quản lí phải nắm được tình hình cũng như những biến động đột xuất của môi trường

- Qui trình ALM có hiệu quả trong việc xác định, đo lường, kiểm soát và giám sát các rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất hay không.

- Hệ thống thông tin quản trị có tập trung và cung cấp được những thông tin có giá trị, đầy đủ, chính xác và kịp thời cho phép LM đạt mục tiêu tốt nhất hay không.


1.2.2.2. Đánh giá kết quả thực hiện ALM

Đánh giá kết quả thực hiện ALM của NHTM chính là việc xem xét, đánh giá kết quả của việc thực hiện các mục tiêu ALM. Các mục tiêu tương ứng với các nội dung của ALM sẽ được đánh giá bởi các chỉ tiêu sau:

a. Quản trị c u trúc bảng Cân đối kế toán của NHTM

ALM cần thiết lập được cơ cấu TSC và TSN hợp lí, tối ưu, đảm bảo tính sinh lời, khả năng thanh khoản của TSC và chi phí thấp nhất cho các TSN cũng như mối tương quan giữa TSC và TSN nhằm gia tăng thu nhập lãi ròng, hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Đánh giá chất lượng quản trị cấu trúc bảng Cân đối kế toán cần xem xét đến các khía cạnh, chỉ tiêu sau:

- Việc thiết lập cấu trúc bảng Cân đối kế toán có hợp lí không thể hiện ở việc lập kế hoạch nguồn vốn và sử dụng vốn có sát với thực tế trong quá trình thực hiện hay không;

- Xem xét, phân tích các chỉ tiêu đánh giá tính hợp lí của qui mô, cơ cấu TSN, TSC trong điều kiện biến động của các yếu tố thị trường. Cụ thể các chỉ tiêu đó gồm:

Các chỉ tiêu đánh giá cơ c u TSN, TSC của ngân hàng

-Cơ c u TSN

Mỗi loại TSN của ngân hàng có sự khác nhau về chi phí, về thời hạn và mức độ rủi ro. Do vậy một cơ cấu TSN hợp lí là sự kết hợp các loại nguồn vốn sao cho chi phí thấp và có sự ổn định cao. Đánh giá cơ cấu TSN của ngân hàng có thể sử dụng những chỉ tiêu cơ bản sau:

Một là, tỉ trọng từng khoản mục TSN.




Trong đó, TSN được phân theo các tiêu chí cơ bản:


- Theo kì hạn: Không kì hạn, có kì hạn


- Theo đối tượng huy động: Cá nhân, tổ chức kinh tế (huy động trên thị trường 1) hay huy động t các NH khác (huy động t thị trường 2).

- Theo đồng tiền huy động: VND, ngoại tệ


Các chỉ tiêu này cho phép đánh giá cơ cấu TSN biến động theo chiều hướng nào về chi phí, về sự ổn định nguồn vốn của ngân hàng căn cứ vào tính chất của t ng khoản mục TSN.

Hai là, chi phí cho TSN. Chi phí cho TSN có thể được xác định bằng các phương pháp khác nhau như đã đề cập đến ở mục 1.1.3.1/c2. Các ngân hàng cần tìm cho mình một tổ hợp các nguồn vốn khác nhau trên thị trường với mức chi phí thấp nhất. Vì nếu giả thiết coi tất cả các yếu tố khác như nhau thì ngân hàng nào có mức chi phí huy động vốn thấp nhất mà không phải chấp nhận mức rủi ro cao hơn thì ngân hàng đó sẽ có mức lợi nhuận cao hơn, tăng khả năng sinh lời của ngân hàng [4].

-Cơ c u TSC

Cơ cấu tài sản thể hiện mức độ đầu tư của ngân hàng vào mỗi loại tài sản, nó được quyết định bởi khả năng sinh lời, tính thanh khoản và mức độ rủi ro khác nhau của mỗi loại tài sản. Đánh giá tính hợp lí của cơ cấu TSC cần xem xét đến sự cân đối, hài hòa giữa khả năng sinh lời và tính thanh khoản của tài sản thể hiện qua các chỉ tiêu sau:

- Tỉ trọng TSC sinh lời trong tổng tài sản:




Trong đó, TSC sinh lời là những tài sản tạo ra nguồn thu cho ngân hàng dưới dạng thu lãi và thu ngoài lãi và chủ yếu là khoản mục đầu tư và cho vay [5, tr195]. Tiền mặt tại quỹ và TSCĐ là các loại tài sản không sinh lời. Do vậy có thể xác định:

TSC sinh lời = Các khoản cho vay + các khoản cho thuê + Đầu tư chứng khoán = Tổng tài sản – (Tiền mặt tại quỹ + tiền dự trữ TSCĐ).


Chỉ tiêu này đánh giá tỉ trọng đầu tư vào TSC sinh lời của NH. Nhìn chung, khi tỉ trọng TSC sinh lời giảm, HĐQT và nhân viên của ngân hàng phải làm việc tích cực hơn để có thể duy trì mức thu nhập hiện tại. Do vậy, chỉ tiêu này càng cao sẽ càng đem lại nhiều thu nhập cho NH song cũng cần xem xét đến tính rủi ro và tính thanh khoản của các tài sản này.

Trong TSC sinh lời cần đánh giá các thành phần cơ bản của nó qua các chỉ tiêu:


Một là, tỉ trọng tín dụng.




Chỉ tiêu này đánh giá mức độ đầu tư vào hoạt động tín dụng của NH. Đây là khoản mục TSC sinh lời chủ yếu của ngân hàng, tạo ra nguồn thu nhập chính. Song đây cũng là tài sản chứa đựng nhiều rủi ro và có tính thanh khoản kém. Vì vậy khi đánh giá chỉ tiêu này cần xem xét đến mức độ rủi ro tín dụng và tình hình thanh khoản chung của ngân hàng.

Hai là, tỉ trọng khoản mục đầu tư chứng khoán.




Chỉ tiêu này đánh giá tỉ trọng hoạt động đầu tư trong tổng tài sản của ngân hàng. Đây là các tài sản tài chính được mua bán trên thị trường tài chính nhằm mục tiêu sinh lời. Thu nhập t các tài sản này gồm các khoản thu cổ tức, thu lãi do các nhà phát hành thanh toán và thu t sự tăng giá của các chứng khoán trên thị trường. Do vậy việc nắm giữ các tài sản này cũng chứa đựng các rủi ro lớn t sự biến động giá thị trường của các chứng khoán.

- Tỉ trọng TSC không sinh lời hoặc không trực tiếp sinh lời.


Ngoài các TSC sinh lời thì ngân hàng cũng cần duy trì các tài sản không sinh lời, sinh lời thấp nhưng có tính thanh khoản cao nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản, và những tài sản không trực tiếp sinh lời nhưng rất cần thiết để phục vụ quá


trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy cần đánh giá cơ cấu của các tài sản này thông qua các chỉ tiêu sau:

Một là, chỉ số tr ng thái tiền mặt và ngân quỹ




Chỉ số này thể hiện khả năng thanh khoản nhanh của ngân hàng tại thời điểm báo cáo. Về lí thuyết nếu chỉ số trạng thái tiền mặt càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng thanh khoản tức thời để xử lí các nhu cầu tiền mặt tức thời. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này quá cao thì lại làm giảm lợi nhuận của ngân hàng bởi vì đây là các tài sản không sinh lời hoặc hầu như không sinh lời cho ngân hàng. Điều này thể hiện công tác quản trị thanh khoản của ngân hàng chưa có hiệu quả về chi phí cho dù có hạn chế được rủi ro thanh khoản. Theo thông lệ tốt nhất về quản lí khả năng thanh khoản của các ngân hàng – Basel 2000, chỉ tiêu này dao động ở mức 2- 3 là hợp lí.




Tương tự như chỉ số trạng thái tiền mặt, chỉ số này đánh giá t trọng các tài sản có tính thanh khoản cao trong tổng số tài sản của NH. Chỉ số này cũng có quan hệ thuận chiều với khả năng thanh khoản của NH và quan hệ nghịch chiều với tính sinh lời cũng như độ rủi ro thanh khoản của NH.

Hai là, chỉ số chứng khoán thanh khoản:




Chứng khoán chính phủ là những chứng khoán có độ thanh khoản cao nhất. Chỉ số chứng khoán thanh khoản càng cao, trạng thái thanh khoản của ngân hàng càng tốt. Theo Thông lệ tốt nhất về quản lí khả năng thanh khoản của các ngân hàng

– Basel 2000 thì các NHTM cần duy trì tối thiểu chỉ tiêu này ở mức 4 để đảm bảo khả năng thanh khoản trong hoạt động.


Ba là, tỉ trọng đầu tư vào TSCĐ.




Chỉ tiêu này đánh giá mức độ đầu tư vào TSCĐ của ngân hàng, đây là loại tài sản không trực tiếp sinh lời nên ngân hàng cần duy trì ở mức độ v a phải sao cho việc sử dụng tài sản là có hiệu quả nhất.

- Hiệu quả sử dụng tài sản



Hiệu quả sử dụng tài sản là một thước đo chất lượng của việc quản trị danh mục tài sản của ngân hàng. Rõ ràng, một cơ cấu tài sản hợp lí sẽ đem lại thu nhập cao cho ngân hàng và làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản. Nếu chỉ tiêu này giảm thì ngân hàng cần xem xét lại các chính sách liên quan đến danh mục đầu tư tài sản để xác định xem liệu sự giảm sút này có phải là các yếu tố trong tầm kiểm soát của ngân hàng hay không.

-Mối tương quan giữa TSC và TSN

Đánh giá mối tương quan giữa TSC và TSN nhằm thấy được sự hợp lí, cân đối giữa TSC và TSN, đảm bảo có được thu nhập t TSC để bù đắp chi phí cho các khoản mục TSN và đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, mặt khác sự tương quan giữa TSC và TSN hợp lí sẽ hạn chế được rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất cho ngân hàng qua đó thể hiện chất lượng của ALM. Các chỉ tiêu cơ bản nhằm đánh giá mối tương quan giữa TSC và TSN gồm có:

- Chỉ tiêu tương quan giữa TSC sinh lời và vốn huy động:




Chỉ tiêu này đánh giá tương quan giữa việc sử dụng vốn huy động để đầu tư


vào tài sản sinh lời. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện ngân hàng càng tận dụng vốn huy động để đem lại thu nhập cho ngân hàng.

- Chỉ tiêu tương quan giữa tín dụng và vốn huy động:




Chỉ tiêu này đánh giá tương quan giữa sử dụng vốn huy động để đầu tư vào hoạt động tín dụng, đồng thời cũng đánh giá khả năng huy động vốn của ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này lớn, một mặt phản ánh tình hình cân đối giữa huy động vốn và tín dụng tốt, một mặt đánh giá khả năng huy động chưa tốt. Tuy nhiên chỉ tiêu này không được lớn hơn 1 bởi trong vốn huy động cần để lại một tỉ lệ để đảm bảo khả năng thanh khoản, mặt khác dư nợ tín dụng là một tài sản mặc dù có tính sinh lợi cao nhưng lại tiềm ẩn rủi ro tín dụng rất lớn, và có tính thanh khoản thấp, do vậy nếu chỉ tiêu này càng cao thì ngân hàng càng có nguy cơ tiềm ẩn rủi ro thanh khoản càng cao.

Ngoài ra còn có các chỉ số thanh khoản tương quan giữa TSC và TSN khác sẽ được trình bày ở mục 1.2.2.2/b.

Chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh ời

Mục tiêu của việc quản trị cấu trúc Bảng Cân đối kế toán là thiết lập được cơ cấu TSN và TSC hợp lí nhằm gia tăng thu nhập cho ngân hàng, do vậy, bên cạnh các chỉ tiêu đánh giá riêng về sự hợp lí của cơ cấu TSN và cơ cấu TSC thì cần đánh giá xem với cơ cấu TSN, TSC như vậy thì đã đạt được mục tiêu cuối cùng là làm tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng hay chưa. Có thể sử dụng chỉ tiêu thu nhập lãi cận biên để đánh giá khả năng sinh lời t cơ cấu TSN, TSC.




Tỉ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu t lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Do vậy, nếu cơ cấu TSN, TSC hợp lí, tối ưu thì sẽ làm cho tỉ lệ này gia tăng qua các năm.

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 22/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí