Kinh Nghiệm Về Đầu Tư Tăng Trưởng Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội

thêm mỗi năm 2% nhưng tối đa không vượt quá 70% mức lương trung bình 3 năm cuối. Mức hưởng có thể được điều chỉnh nếu trượt giá [74].

Nếu NLĐ đủ điều kiện bảo hiểm bị tàn tật vĩnh viễn sau khi điều trị thương tật và bệnh tật họ được nhận trợ cấp tàn tật vĩnh viễn bằng mức lương trung bình của họ nhân với số ngày quy định theo mức độ tàn tật của họ (từ mức 01 đến mức 14 quy định của chế độ BHXH). Nếu NLĐ bị chết do bị thương tật hay bệnh tật liên quan đến công việc, đủ điều kiện bảo hiểm, thì thân nhân người lao động được nhận mức lương ngày trung bình của người lao động nhân với 1300 ngày. Nếu tổ chức tang lễ thì chi phí mai táng được hỗ trợ bằng mức lương trung bình ngày của NLĐ nhân với 120 ngày. Mức lương ngày trung bình được tính bằng tổng lương của ba tháng cuối ngay trước khi xảy ra tai nạn chia cho số ngày của ba tháng cuối đó.

2.3.3. Kinh nghiệm về đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội

Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH là một hoạt động quan trọng của tài chính BHXH, do đó pháp luật về BHXH của hầu hết các nước đều có những quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt về hoạt động này. Thông thường, người ta quy định quỹ BHXH được phép đầu tư vào các lĩnh vực: gửi tiền ở ngân hàng, mua các loại trái phiếu chính phủ, cho các công ty vay vốn, trực tiếp liên doanh hoặc uỷ thác kinh doanh, tư vấn bảo hiểm, xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản... ở những nước mà các chế độ chăm sóc y tế nằm trong hệ thống BHXH, người ta còn xây dựng các cơ sở y tế nhằm mục đích kinh doanh và phục vụ việc nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu về chi phí y tế. Nhìn chung, hoạt động đầu tư quỹ BHXH rất được chú trọng ở các nước. Tuy nhiên, hình thức, phương thức và chính sách thực hiện đầu tư ở mỗi nước lại không giống nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện KT-XH và trình độ phát triển thị trường tài chính của từng nước. Sau đây là kinh nghiệm đầu tư quỹ BHXH ở một số nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)

2.3.3.1. Kinh nghiệm ở Malayxia

Ở Malayxia, hoạt động BHXH được thực hiện bởi hai quỹ - đó là Quỹ BHXH do Tổ chức BHXH Malayxia (SOCSO) quản lý, và Quỹ Phòng xa dành cho người lao động (EPF) do Bộ Tài chính quản lý.

Quỹ BHXH thuộc SOCSO thực hiện các chế độ: tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, y tế, phục hồi, tuất. Quỹ này được phép đầu tư vào các lĩnh vực:

+ Trái phiếu chính phủ Malayxia;

+ Các khoản đầu tư hoặc chứng khoán phát hành bởi các tổ chức tín dụng có tín nhiệm;

+ Cổ phiếu và các giấy nhận nợ được định giá trên TTCK Malayxia;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

+ Các khoản đầu tư khác do Chính phủ Malayxia quy định.

Quỹ EPF cung cấp các chế độ BHXH: hưu trí, tử tuất, người sống phụ thuộc. Quỹ này được phép đầu tư vào trái phiếu chính phủ Malayxia, các khoản vay và giấy nợ, giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ, cổ phần không có lãi cố định, các dự án liên doanh và tư nhân hoá, và một số tài sản khác.

Hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - 9

Trong bộ máy tổ chức của hai quỹ này đều có bộ phận chuyên trách về đầu tư tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH thuộc SOCSO có Ban Đầu tư gồm Chủ tịch Hội đồng quản lý quỹ BHXH, Tổng Giám đốc quỹ BHXH, đại diện của người lao động, người sử dụng lao động và một số Bộ, ngành liên quan (KBNN, Ngân hàng Trung ương, Bộ Nguồn nhân lực...); còn quỹ EPF có bộ phận quản lý hoạt động đầu tư bao gồm Phòng Quản lý dự án, Phòng Quản lý tài sản, Phòng Đầu tư 1 và Phòng Đầu tư 2 [74].

Như vậy, ở Malayxia, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH được thực hiện đối với cả nguồn vốn thu từ chế độ BHXH ngắn hạn (quỹ BHXH) và nguồn vốn thu từ chế độ BHXH dài hạn (quỹ EPF).

2.3.3.2. Kinh nghiệm ở Singapore


Quỹ Phòng xa trung ương của Singapore (The Central Provident Fund - CPF) được thành lập năm 1955 với mục đích cung cấp các đảm bảo về tài chính cho người lao động trong trường hợp họ nghỉ hưu. Dần dần, quỹ này không chỉ cung cấp các chế độ BHXH mà còn cung cấp sự bảo vệ về mặt tài chính cho các thành viên của CPF và gia đình họ thông qua hệ thống bảo hiểm của CPF.

Theo luật pháp của Singapore, quỹ CPF chủ yếu được đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các chứng khoán. Ngoài ra, CPF còn được phép đầu tư vào:

+ Các chứng khoán có thu nhập cố định phát hành tại Singapo của bất kỳ một công ty nào được pháp luật thừa nhận;

+ Các khoản tiền gửi sinh lãi bằng đồng đô la Singapore tại Ngân hàng Trung ương hoặc tại các NHTM và các công ty tài chính ở Singapre;

+ Các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng bằng đô la Singapore do các NHTM ở Singapore phát hành;

+ Các cổ phần do các công ty đầu tư tài chính phát hành.

Quỹ CPF cũng được đầu tư ra nước ngoài nhưng giới hạn tối đa là 30% tổng số tiền của quỹ, và chỉ được phép mua các chứng khoán loại A do các chính phủ nước ngoài phát hành.

2.3.3.3. Kinh nghiệm ở Philippin


Tổ chức BHXH Philippin (The Social Security System - SSS) là tổ chức thực hiện các chế độ trợ cấp BHXH cho người lao động ở khu vực tư nhân. Tổ chức này cung cấp các khoản vay cho các thành viên của mình với một tỷ lệ lãi suất quy định để các thành viên có thể sử dụng vào mục đích mua nhà, thực hiện các khoản đầu tư, chi tiêu vào giáo dục.

Quỹ BHXH do SSS quản lý được xác định là một nguồn lực tài chính quan trọng để thực hiện các dự án phát triển KT-XH nhằm đạt được mục đích cải thiện và nâng cao phúc lợi xã hội cung cấp cho con người như xây dựng các bệnh viện, xây dựng nhà ở và thực hiện các dự án phát triển nông thôn.

Năm 1996, tổng tài sản của SSS đạt 143,2 tỷ Pêsô; tổng số tiền đầu tư là 134,8 tỷ pêsô, trong đó 44% là đầu tư vào trái phiếu chính phủ, 38% là cho vay đối với các thành viên của tổ chức, và 18% đầu tư vào chứng khoán của các công ty tư nhân trong nước. Thu nhập từ hoạt động đầu tư năm 1996 đạt 15,5 tỷ pêsô, trong đó thu nhập ròng là 14,6 tỷ pêsô [74].

Để thực hiện các hoạt động đầu tư, SSS rất chú trọng việc đào tạo các chuyên gia toán bảo hiểm. ở đây, người ta cho rằng hai quan chức cao cấp nhất của hệ thống BHXH Philippin chính là chuyên gia thiết kế chính sách và chuyên gia toán bảo hiểm.

2.3.4. Kinh nghiệm về chính sách cân đối quỹ bảo hiểm xã hội

Trên thực tế, không phải bất cứ lúc nào quỹ BHXH cũng có trạng thái thu vào bằng số chi ra và ngược lại. Quỹ BHXH luôn vận động không ngừng và nó phụ thuộc vào số lượng đối tượng tham gia BHXH, đối tượng hưởng chế độ BHXH, các chế độ chính sách về tiền lương, chế độ phụ cấp... Quỹ BHXH sẽ ở trạng thái bị mất cân đối nếu số thu vào của quỹ thấp hơn so với số chi ra của quỹ, trong trường hợp này cần phải tìm thêm nguồn thu hoặc có biện pháp để tăng nguồn thu để bù đắp số thiếu hụt của quỹ BHXH nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả BHXH cho các đối tượng theo quy định. Cân bằng thu chi là trạng thái mong muốn của mỗi nước khi triển khai thực hiện các chính sách tài chính BHXH.

2.3.4.1. Kinh nghiệm ở Trung Quốc


Tại quốc gia đông dân nhất thế giới này, hệ thống BHXH hiện nay bao gồm: Hệ thống bảo hiểm dành cho các cơ quan Nhà nước và hệ thống bảo hiểm dành cho NLĐ trong doanh nghiệp. Để đảm bảo cân bằng thu chi cho quỹ BHXH thì Trung Quốc thực hiện các chính sách như sau:

- Đối với hệ thống bảo hiểm dành cho NLĐ trong doanh nghiệp:

+) Về đối tượng tham gia: Hệ thống bảo hiểm cơ bản được áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp và NLĐ trong doanh nghiệp.

+) Về tỷ lệ đóng góp: tỷ lệ đóng góp của doanh nghiệp do chính quyền địa phương các tỉnh quy định nhưng thông thường không vượt quá 20% tổng quỹ lương của doanh nghiệp; những nơi nào cao hơn 20% phải báo cáo lên chính quyền trung ương để thông qua. NLĐ trong doanh nghiệp cũng phải đóng góp một phần lương của họ, mức đóng góp này sẽ được tăng dần theo thời gian với mức tăng 1% sau 2 năm cho đến khi đạt mức 8%.

+) Về tuổi nghỉ hưu: Theo quy định hiện nay thì nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Tuy nhiên, Trung Quốc cho phép nâng tuổi nghỉ hưu của cán bộ nữ ở một vài chức danh lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu khoa học,...

+) Tài khoản cá nhân: Theo quy định của BHXH Trung Quốc, 11% của tổng số tiền từ lương sẽ được đưa vào tài khoản cá nhân để làm nguồn đả bảo

cho NLĐ. 11% đó bao gồm toàn bộ phần đóng góp của NLĐ và NSDLĐ. Tài khoản cá nhân này được trả lãi suất và không thấp hơn lãi suất tiết kiệm của ngân hàng. Cuối năm 1998, tại Trung Quốc đã có hơn 61,18 triệu NLĐ có tài khoản cá nhân.

+) Về mức hưởng BHXH: NLĐ đến tuổi nghỉ hưu và đã đóng góp BHXH không dưới 10 năm cho quỹ BHXH thì được nhận 2 phần bảo hiểm đó là: Quyền lợi hưu trí cơ ban và quyền lợi hưu trí lấy từ tài khoản cá nhân. Phần bảo hiểm hưu trí cơ bản là 20% mức lương trung bình cua tổng số năm đi làm, còn số tiền lấy từ tài khoản cá nhân là bằng 1/120 của tổng giá trị tài sản đang có trong tài khoản.

+) Về cơ chế điều chỉnh: Nhà nước sẽ đều đặn tăng mức bảo hiểm hưu trí theo mức tăng của lương và mức tăng cua giá cả sinh hoạt.

- Đối với hệ thống BHXH dành cho NLĐ trong các cơ quan Nhà nước

+) Các chi phí đóng góp cho quỹ BHXH do cơ quan Nhà nước trả và không có sự đóng góp nào từ cá nhân NLĐ.

+) Hệ thống chi trả BHXH đồng nhất trên cả nước và không có sự phân biệt giữa các cơ quan khác nhau. Bảo hiểm hưu trí được chi trả dựa trên mức lương của cá nhân và được tính tỷ lệ theo số năm công tác. Đối với quân đội, lương hưu gồm lương cơ bản, phần thêm tính theo chức vụ. Đối với NLĐ làm việc trong các cơ quan Nhà nước, lương hưu bao gồm lương cơ bản và lương chức vụ là trung bình của tất cả các năm công tác [31], [68].

2.3.4.2. Kinh nghiệm ở Hàn Quốc


Cũng giống như Trung Quốc, hệ thống BHXH của Hàn Quốc hiện nay bao gồm: BHXH đối với các công chức, viên chức và hệ thống BHXH đối với NLĐ trong các doanh nghiệp. Để đảm bảo cân đối cho quỹ BHXH thì Hàn Quốc thực hiện các chính sách như sau:

- Đối với các công chức, viên chức:

+) Mức đóng BHXH là 17% lương tháng, trong đó Nhà nước đóng góp

8,5% và công chức, viên chức đóng góp 8,5%. Nhà nước hỗ tợ quỹ trong trường hợp chi lớn hơn thu và được cân đối hàng năm.

+) Về tuổi nghỉ hưu: đủ 60 tuổi đối với cả nam và nữ, trong đó có ít nhất 20 năm đóng BHXH và tối đa là 33 năm. Từ năm thứ 34 không phải đóng BHXH nữa.

+) Về mức hưởng: Công chức, viên chức đã đóng đủ 20 năm được hưởng 50% lương trung bình của 3 năm cuối. Từ năm thứ 21 đến năm thứ 33 tăng thêm mỗi năm 2% nhưng tối đa không quá 70% lương trung bình của 3 năm cuối. Mức hưởng lương hưu có điều chỉnh khi trượt giá.

+) Trợ cấp một lần: Áp dụng cho người có dưới 20 năm đóng BHXH hoặc đối với người có đủ 20 đóng BHXH nhưng tự nguyện hưởng trợ cấp một lần.

- Đối với NLĐ trong các doanh nghiệp:

+) Đối tượng tham gia BHXH: Khởi đầu chế độ BHXH được áp dụng đối với NLĐ ở những doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên, làm việc đầy đủ thời gian (năm 1988), sau đó giảm xuống còn 5 lao động (năm 1992) và tiếp tục mở rộng thêm đối tượng là nông dân, ngư dân (năm 1995), người lạo động tự do ở khu vực đô thị (năm 1999).

+) Về mức đóng: Mức đóng bảo hiểm hưu trí trong các doanh nghiệp của Hàn Quốc hiện nay là 9%, trong đó NLĐ đóng góp trực tiếp 4,5%, NSDLĐ đóng góp trực tiếp là 4,5%. Bảo hiểm bồi thường tai nạn lao động (IACI), IACI là chương trình BHXH quốc gia dành cho NLĐ mắc bệnh hay tàn tật liên quan tới công việc hoặc bị tử vong tại nơi làm việc trong quá trình lao động. IACI dựa trên Luật Bảo hiểm bồi thường TNLĐ trợ giúp những người lao động bị thương hay tàn tật nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của họ, hoặc nhận thu nhập để có thể trang trải cuộc sống, kể cả những người sống phụ thuộc vào họ. NSDLĐ chịu trách nhiệm đóng toàn bộ số tiền phí bảo hiểm chế độ này và NLĐ không phải trả bất cứ khoản phí nào. Mức đóng của NSDLĐ từ 0,7% đến 34,04% lương tháng tùy thuộc vào từng ngành, từng lĩnh vực NLĐ làm việc.

Các chế độ hưởng của chương trình IACI bao gồm:

a) Chăm sóc y tế

- Nếu NLĐ bị thương hay bị bệnh liên quan đến công việc cần được điều trị trong khoảng thời gian trên 04 ngày, người đó được điều trị tại các cơ sở y tế

và được công ty Phúc lợi lao động Hàn Quốc (KLWC) sẽ thanh toán chi phí điều trị.

- Nếu NLĐ không thể tự vận động đi lại cần người hỗ trợ trong quá trình điều trị thì chi phí dịch vụ này được KLWC thanh toán.

b) Trợ cấp tàn tật tạm thời


Những NLĐ đủ điều kiện bảo hiểm được nhận trợ cấp tàn tật tạm thời với mức 70% lương bình quân trong suốt số ngày họ không thể làm việc do phải điều trị y tế.

c) Trợ cấp tàn tật vĩnh viễn

Nếu NLĐ đủ điều kiện bảo hiểm bị tàn tật vĩnh viễn sau khi điều trị thương tật và bệnh tật họ được nhận trợ cấp tàn tật vĩnh viễn bằng mức lương trung bình của họ nhân với số ngày quy định theo mức độ tàn tật của họ (từ mức 01 đến mức 14 quy định của chế độ này).

d) Chế độ tử tuất

Nếu NLĐ bị chết do bị thương tật hay bệnh tật liên quan đến công việc, đủ điều kiện bảo hiểm, thì thân nhân NLĐ được nhận mức lương ngày trung bình của NLĐ nhân với 1300 ngày. Nếu tổ chức tang lễ thì chi phí mai táng được hỗ trợ bằng mức lương trung bình ngày của NLĐ nhân với 120 ngày. Mức lương ngày trung bình được tính bằng tổng lương của ba tháng cuối ngay trước khi xảy ra tai nạn chia cho số ngày của ba tháng cuối đó.

+) Về chế độ hưu trí tuổi già: NLĐ khi đủ 60 tuổi (không phân biệt nam và nữ) và có thời gian đóng BHXH 20 năm trở lên sẽ được nghỉ hưu và nhận lương hưu ở mức đầy đủ (trừ một số lao động thuộc ngành nghề nặng nhọc như thợ mở, ngư dân thì có thể nghỉ hưu sớm hơn).

+) Về mức hưởng lương hưu: Bao gồm lương cơ bản và lương hưu bổ sung. Trong đó, lương cơ bản dành cho những NLĐ có từ 20 năm đóng BHXH trở lên mới được hưởng, còn trong trường hợp dưới 20 năm thì được nhận trợ cấp thấp hơn. Lương hưu cơ bản được xác định theo công thức sau:

Lương hưu cơ bản = 1,8 x ( A + B) x (1 + 0,05xN)

Trong đó: A là thu nhập bình quân tháng được điều chỉnh theo giá của 3 năm trước khi trả lương; B là thu nhập bình quân của các khoản thu nhập chuẩn hàng tháng của NLĐ trong cả quá trình đóng BHXH; 0,05 là tỷ lệ tính thêm cho những người có trên 20 năm tham gia BHXH; N là số năm vượt quá 20 năm đóng BHXH, mỗi tháng vượt là tính 1/12 năm.

Lương hưu bổ sung: là phần hỗ trợ cho gia đình, đối tượng hưởng là vợ (hoặc chồng), con dưới 18 tuổi bị tàn tật loại 1 và loại 2; bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ vợ (hoặc chồng) từ 60 tuổi trở lên bị tàn tật loại 1 hoặc loại 2. Số tiền lương hưu bổ sung này cố định và có thể được điều chỉnh theo sự thay đổi của chỉ số giá cả [31], [68].

2.3.4.3. Kinh nghiệm ở Thụy Điển

Thụy Điển là quốc gia có mức thu nhập trung bình theo giờ làm việc cao nhất trong liên minh châu Âu và chất lượng cuộc sống của người dân đừng hàng đầu thế giới. Năm 1999, Thụy Điển tiến hành cải cách lớn chế độ BHXH với 2 mục tiêu như sau:

+) Đảm bảo lâu dài về mặt ngân sách;

+) Quỹ BHXH được đóng góp hoàn toàn dựa vào việc thiết lập một mối quan hệ chặt chẽ giữa các khoản đóng góp và mức trợ cấp được chi trả.

Tại Thụy Điển, mức đóng BHXH là 18,5% tiền lương tháng, trong đó NLĐ và NSDLĐ đóng góp như nhau. Trong tổng số đóng góp thì 16% dành cho quỹ để chi cho chế độ mức hưởng xác định và 2,5% dành cho quỹ tài khoản cá nhân. Vào thời điểm nghỉ hưu, người đóng góp có quyền nhận hai hình thức trợ cấp: một dựa trên các thu nhập và các đóng góp, một dựa trên lợi nhuận đầu tư. Việc đóng góp 18,5% theo thu nhập với mức trần cao nhất là

278.000 curon Thụy Điển/năm. Những người có thu nhập vượt quá mức trần này phải sử dụng các mức bảo hiểm khác nếu họ muốn nhận được khoản trợ cấp hưu trí có ưu thế hơn.

Mức trợ cấp được tính toán dựa trên thu nhập trung bình trong toàn bộ thời gian đóng góp chứ không chỉ trong 15 năm có mức lương cao nhất.

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 21/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí