Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam

Về tuổi nghỉ hưu: Ở Thụy Điển quy định NLĐ được phép nghỉ hưu khi đủ 61 tuổi không phân biệt nam, nữ. Tuy nhiên, tuổi nghỉ hưu rất linh hoạt tùy theo hoàn cảnh và vị trí công việc, cách tính toán trợ cấp hưu trí được dựa vào tuổi nghỉ hưu thực tế để chi trả [31].

2.3.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Trên cơ sở kinh nghiệm về chính sách huy độngvà sử dụng, đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH của một số nước trên thế giới, ta có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam như sau:

Thứ nhất, tăng cường vai trò của Nhà nước đối với BHXH. Yêu cầu phải tăng cường vai trò của Nhà nước đối với BHXH nhằm đảm bảo tài chính cho BHXH. Vai trò của Nhà nước thể hiện ở việc xây dựng các văn bản pháp quy về BHXH và thông tư hướng dẫn thực hiện. Sau đó kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách BHXH. Định hướng cho các hoạt động BHXH và bảo hộ, bảo trợ cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo duy trì sự ổn định bền vững cho quỹ.

Thứ hai, hoàn thiện về thiết chế chính sách BHXH theo hướng mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tăng dần độ bao phủ BHXH để đảm bảo quyền lợi được tham gia BHXH của người lao động. Nên dựa vào mức thu nhập tháng để làm căn cứ đóng BHXH thay vì căn cứ vào thang bảng lương hiện nay. Thực tế hiện nay ở nước ta, còn có sự chênh lệch lớn giữa mức lượng và mức thu nhập thực tế. Nếu căn cứ vào mức lương để đóng BHXH thì mức đóng BHXH sẽ rất thấp, không đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng lương hưu. Ngoài ra, tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH nên cân đối, hài hoà giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Thứ ba, mở rộng hình thức BHXH tự nguyện đến mọi đối tượng lao động trong xã hội như người làm việc tự do, buôn bán kinh doanh nhỏ lẻ, lao động nông nghiệp đó là những người dân sống ở vùng nông thôn, những người lao động có việc làm không ổn định và theo thời vụ, người tham gia vào công việc nội trợ, giúp việc hoặc các công việc phụ khác không có hợp đồng lao

động… Việc mở rộng phạm vi bao phủ, một mặt vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động, mặt khác thực hiện nguyên tắc số đông bù số ít trong BHXH, giúp cân bằng và phát triển quỹ BHXH trong thời gian dài.

Thứ tư, bên cạnh quỹ BHXH công do Nhà nước hỗ trợ thì cần thiết lập các quỹ BHXH tự nguyện bổ sung. Phát triển và mở rộng các loại hình BHXH theo nguyên tắc đóng-hưởng. Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần khi quỹ BHXH không đủ.

Thứ năm, từng bước thực hiện cải cách như: Quy định lại căn cứu đóng và mức đóng BHXH, điều kiện hưởng các chế độ BHXH, cải cách cách tính lương hưu, tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Thứ sáu, khi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH phải đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro và đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên. Lãi suất đầu tư phải luôn cao hơn tỷ lệ lạm phát. Chính phủ Việt Nam phải quản lý chặt chẽ các hoạt động đầu tư, phần lớn các dự án đầu tư đều phải được chính phủ cho phép, nhìn chung danh mục đầu tư do chính phủ quy định, ngoài các dự án đầu tư do chính phủ quản lý, chính phủ có thể phân cấp cho tổ chức BHXH quyền quản lý và ra quyết định đầu tư đối với các dự án nhỏ.

Thứ bảy, BHXH chỉ nên tập trung đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi vào các tài sản tài chính, vì chỉ có những tài sản này mới đáp ứng được yêu cầu về khả năng thanh toán thường xuyên cho các chế độ BHXH. Trong điều kiện thị trường bất động sản có mức độ rủi ro cao và chưa hoàn thiện như ở nước ta, đầu tư của BHXH nên hạn chế tối đa vốn đầu tư vào lĩnh vực này.

Hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt Nam - 10

Thứ tám, về thời hạn đầu tư, nếu công tác dự báo làm tốt thì có thể đầu tư dài hạn, còn nếu kinh nghiệm dự báo chưa nhiều, trình độ còn hạn chế thì nên dành tỷ lệ vốn đầu tư tối đa vào lĩnh vực đầu tư ngắn hạn đồng thời cũng hạn chế được rủi ro.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


Trong chương 2 này đã trình bày khái niệm, vai trò của BHXH, chính sách tài chính BHXH; các nguyên tắc của chính sách tài chính BHXH, các bộ phận cấu thành của chính sách tài chính BHXH và các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách tài chính BHXH. Các khái niệm chính trong chương này như sau:

- BHXH là một chế định bảo vệ NLĐ, sử dụng nguồn tiền đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và được sự tài trợ một phần của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động hoặc khi chết.

- Hoạt động BHXH là loại hoạt động dịch vụ công mang tính xã hội cao lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Hoạt động của BHXH có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị xã hội.

- Quỹ BHXH có vai trò quan trọng đối với các mặt kinh tế - chính trị - xã hội, do vậy thông qua quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH góp phần ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.

- Chính sách tài chính BHXH là hệ thống các quan điểm, các mục tiêu, các giải pháp trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính cho BHXH đảm bảo thực thi chính sách và chiến lược phát triển BHXH Việt Nam trong từng thời kỳ.

- Các bộ phận cấu thành chính sách tài chính BHXH bao gồm 4 nội dung cơ bản sau: Chính sách huy động nguồn tài chính; Chính sách sử dụng nguồn tài chính; Chính sách đầu tư tăng trưởng và chính sách cân đối quỹ BHXH.

Việc nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản trong chương 2 là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng chính sách tài chính BHXH của Việt Nam hiện nay.

Trên cơ sở nghiên cứu về kinh nghiệm chính sách tài chính BHXH của một số nước trên thế giới, nghiên cứu sinh đã đưa ra được một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Đây chính là một căn cứ để đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính BHXH ở Việt Nam trong thời gian tới.

Chương 3

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM


3.1. KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM

3.1.1. Sự hình thành và phát triển của Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Ta có thể khái quát quá trình hình thành và phát triển BHXH ở Việt Nam theo 3 giai đoạn như sau:

3.1.1.1. BHXH Việt Nam giai đoạn trước 1995

Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm tới việc tổ chức thực hiện BHXH. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Chính phủ đã áp dụng chế độ hưu trí cũ của Pháp để giải quyết quyền lợi cho một số công chức đã làm việc dưới thời Pháp, sau đó đi theo kháng chiến nay đã già yếu. Tuy nhiên, trong giai đoạn do Chính phủ cách mạng lâm thời còn khó khăn về nhiều mặt nên chế độ chỉ được thực hiện đến năm 1949.

Năm 1950, Hồ Chủ tịch kí Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành quy chế công chức và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy chế công nhân. Theo các Sắc lệnh trên, công chức và công nhân đã có những quyền lợi về chế độ hưu trí. Tuy nhiên, các chính sách triển khai thực hiện không đầy đủ, chỉ mới thực hiện được một số chế độ cơ bản với mức trợ cấp thấp nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho bộ phận công nhân, viên chức Nhà nước. Nguồc chi 100% lấy từ NSNN, chưa hề có sự đóng góp của các bên. Ngày 27/12/1961 Chính phủ ban hành Nghị định số 218/CP kèm theo Điều lệ tạm thời về BHXH áp dụng đối với công nhân, viên chức nhà nước (có hiệu lực từ đầu năm 1962) và Nghị định số 161/CP ngày 30/10/1964 kèm theo Điều lệ tạm thời chế độ đãi ngộ quân nhân, thanh niên xung phong, dân quân, du kích tự vệ.

Các văn bản Nghị định này là sự cụ thể hóa quy định Hiến Pháp năm 1959, trong đó tại Điều 32 đã ghi nhận: “Người lao động có quyền được giúp đỡ vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chức BHXH, cứu tế và y tế để bảo đảm cho người lao động được

hưởng quyền đó”. Theo đó, các văn bản pháp luật này đã quy định rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh; quy định các chế độ BHXH (gồm 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tửu tuất); quy định về quyền và nghĩa vụ các bên có liên quan trong BHXH. Mức trợ cấp BHXH hàng tháng được căn cứ vào thời gian công tác nói chung và thời gian công tác cho cách mạng, vào tuổi đời, vào điều kiện làm việc, vào tình trạng suy giảm khả năng lao động. Đối với người được tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến nếu có đủ 15 năm công tác liên tục mà bị mất sức lao động từ 61% trở lên thì được hưởng hưu trí không phụ thuộc tuổi đời.

Cái mới ở giai đoạn này là đã có thêm chế độ BHXH đối với khu vực ngoài quốc doanh. Trong khu vực tiểu thủ công nghiệp, liên hiệp xã, Trung ương ban hành Điều kệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với các xã viên hợp tác xã và các tổ hợp sản xuất tiểu thủ công nghiệp theo Quyết định số 292/BCĐ-LĐ ngày 15 tháng 12 năm 1982. Về cơ bản Điều lệ này được thiết kế theo các chế độ BHXH trong khu vực nhà nước. Điểm đặc trưng cơ bản là nguồn thu dựa trên cơ sở tiền đóng góp của người lao động. Do sản xuất tiểu thủ công nghiệp không ổn định, người lao động đóng góp không thường xuyên, quỹ BHXH chưa được sự bảo hộ Nhà nước, vì vậy Điều lệ này chỉ được thực hiện trong một khoảng thời gian ngắn.

Đến năm 1985 cùng với cải cách tiền lương, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 236/HĐBT có những sửa đổi bổ xung quan trọng như tăng tỉ lệ đóng góp của các đơn vị sản suất kinh doanh. Tuy vậy, thời kì này do nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu là sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ cộng với cơ chế quản lí bao cấp không hiệu quả nên BHXH hầu như không có thu và NSNN vẫn phải bù cấp là chính. Đây cũng là giai đoạn tổ chức quản lí BHXH không ổn định, ro nhiều Bộ ngành khác nhau đảm nhiệm ( Bộ Nội vụ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hôi, Bộ tài chính, Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam). Song chịu trách nhiệm quản lí chính là Bộ Lao động Thương binh và Xã hôi và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI vào tháng 12/1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế

mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Cùng với sự đổi mới chung của đất nước, chính sách BHXH cũng có những chuyển biến. Nội dung cải cách lần này tập trung vào cải cách cơ chế bao cấp trong quản lí, mở ra loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Đến ngày 22/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP về những quy định tạm thời chế độ BHXH. Trong đó có quy định tăng mức đóng BHXH và đặc biệt người lao động phải đóng BHXH. Cơ chế hoạt động của BHXH được quy định trong chương XII của Bộ Luật lao động do Quốc hội khoá IX thông qua ngày 23/6/1994, sau đó được cụ thể hoá trong Điều lệ BHXH và hai Nghị định 12/CP và 45/CP ban hành năm 1995. Từ đây ngành BHXH Việt Nam chuyển sang trang mới trong lịch sử phát triển của mình.

3.1.1.2. BHXH Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2015

Đây là giai đoạn chính sách và quản lí hoạt động BHXH có những đổi mới thực sự từ cơ chế tập chung, bao cấp không đóng BHXH vẫn được hưởng BHXH sang hoạt động theo nguyên tắc có đóng có hưởng, có chia sẻ rủi ro. Về quản lí hoạt động BHXH từ chỗ phân tán do nhiều cơ quan khác nhau đảm nhận, nay tập chung thống nhất về một đầu mối là BHXH Việt Nam. Trên cơ sở quy định đóng BHXH, chính sách thời kì này xác lập rõ cơ chế hình thành và sử dụng quỹ BHXH. Theo đó quỹ BHXH Việt Nam do BHXH Việt Nam quản lí chỉ chịu trách nhiệm đối với người lao động từ năm 1995 trở đi, còn NSNN đảm bảo chi trả cho những đối tượng nghỉ làm việc trước năm 1995.

Căn cứ vào việc thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước được ghi nhận trong các văn kiện của các thời kỳ Đại hội Đảng, các quy định của Bộ luật Lao động liên quan tới BHXH, thời kỳ này BHXH có thể được chia thành 3 giai đoạn sau:

a) Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2000

Các văn bản pháp luật BHXH giai đoạn này đã thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước theo hướng mọi người lao động và các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền và trách nhiệm tham gia

BHXH; thực hiện từng bước tách quỹ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước ra khỏi NSNN. Một số quy định này thể chế hóa các vấn đề cơ bản sau:

- Đối tượng áp dụng là người lao động làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên.

- Quy định rõ người lao động muốn được hưởng thì phải đóng BHXH, người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn hoặc sử dụng. Nhà nước có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động làm việc trong khu vực do ngân sách trả lương. Quy định này đã ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, đồng thời quy định rõ nghĩa vụ và quyền lời của người hưởng thụ.

- Quy định trong chính sách BHXH có 5 chế độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghê nghiệp, hưu trí và tử tuất.

- Quỹ BHXH là một quỹ tài chính nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ được hình thành chủ yếu từ các nguồn do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp.

- Quy định rõ các chức năng quản lý nhà nước về BHXH và chức năng hoạt động sự nghiệp BHXH. Sự phân định rõ các chức năng này là một bước tiến mới trong BHXH nhằm hạn chế sự chồng chéo, tăng cường hiệu lực và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan có liên quan trong BHXH.

Chức năng hoạt động sự nghiệp BHXH được giao cho cơ quan BHXH Việt Nam. BHXH Việt Nam có nhiệm vụ quản lý quỹ BHXH, thực hiện các nghiệp vụ về thu – chi BHXH và đầu từ để phát triển quỹ.

b) Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005.

Chính phủ đã cụ thể hóa bằng các quan điểm, nguyên tắc, nội dung cải cách các chế độ chính sách BHXH trong đề án Cải cách chính sách tiền lương, BHXH và trợ cấp ưu đãi người có công, trong đó tập trung vào các vấn đề trọng tâm:

- Tiếp tục hoàn thiện các chính sách, chế độ BHXH quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Lao động;

- Giải quyết bất hợp lý về lương hưu đối với người nghỉ hưu giữa các thời kỳ khác nhau, trước mắt giải quyết bất hợp lý về lương hưu đối với người nghỉ hưu trước tháng 9/1985 và trước tháng 4/1993, đồng thời thực hiện điều chỉnh lương hưu bảo đảm mối tương quan hợp lý về lương hưu giữa người nghỉ hưu trước và sau khi thực hiện chế độ tiền lương mới.

- Xây dựng Luật BHXH trình Quốc hội.

Trên cơ sở đó, Chính phủ đã trình Quốc hội sửa đổi một số điều về BHXH trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động thông qua vào kỳ họp thứ 11 kháo X tháng 4/2002 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2003. Theo đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 và Nghị định số 89/2003/NĐ- CP ngày 05/08/2003 về việc sửa đổi một số điều của Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995 của Chính phủ; Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; các Nghị định về điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH (Nghị định số 03/2003/NĐ-CP ngày 15/01/2003, Nghị định số 32/2004/NĐ-CP ngày 19/01/2004, Nghị định số 208/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 và Nghị định số 117/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 của Chính phủ.

c) Giai đoạn từ năm 2006 đến 2015

Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2015, lĩnh vực BHXH tiếp tục là một trong các lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, với định hướng phát triển là tiếp tục cải cách hệ thống BHXH. Nhiệm vụ trọng tâm được tập trung vào các nội dung sau:

- Triển khai Nghị quyết số 35/2004/QH11 ngày 25/11/2004 về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2005 của Quốc hội, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng Luật BHXH trình chính phủ, trình Quốc

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/02/2024