Fdi Góp Phần Nâng Cao Kim Ngạch Xuất Khẩu, Mở Rộng Thị Trường Quốc Tế, Tăng Thu Ngoại Tệ


3.3.1.3. FDI góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường quốc tế, tăng thu ngoại tệ

Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần hình thành một số ngành công nghiệp quan trọng của tỉnh như: năng lượng, điện lực, công nghiệp, thủ công nghiệp, khoáng sản, dệt may, dịch vụ, công nghiệp chế biến, thực phẩm… Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.

Bảng 3.9. Đóng góp của khu vực FDI vào tổng kim ngạch xuất khẩu tại tỉnh Savannakhet giai đoạn 2010 – 2020


Năm

Trị giá xuất khẩu

của cả tỉnh (Triệu USD)

Trị giá xuất khẩu của

khu vực FDI (Triệu USD)


Tỷ trọng (%)

2010

9,57

2,70

28,21

2011

9,00

2,66

29,60

2012

8,01

2,82

35,25

2013

7,24

2,95

40,80

2014

7,62

3,14

41,19

2015

8,38

3,27

39,04

2016

7,89

3,27

41,50

2017

7,74

3,28

42,34

2018

7,61

3,55

46,64

2019

7,83

3,55

45,34

2020

6,01

3,10

51,59

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.

Hiệu ứng lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại tỉnh Savannakhet, Lào - 10

Nguồn: Tổng cục thống kê tỉnh Savannakhet, 2021


Nhìn chung, xuất khẩu của khu vực FDI chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh và có xu hướng tăng qua các năm. Xuất khẩu của khu vực FDI đạt 2,7 triệu đô vào năm 2010 chiếm tỷ trọng là 28,21% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Sang năm 2011, kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI có xu hướng giảm và đạt 2,6 triệu đô nhưng vẫn chiếm 29,6% trong tổng kim ngạch. Từ 2012 đến 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI liên tục tăng từ 2,8 triệu đô vào năm 2012


lên 3,5 triệu đô vào năm 2019 chiếm tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh lần lượt là 35,25% và 45,34%. Năm 2020, cũng do ảnh hưởng từ đại dịch Covid- 19, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu từ khu vực FDI giảm còn 3,1 triệu đô la mỹ nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 51,59%.

Như vậy, FDI có tác động tích cực đến sản xuất hàng hóa, góp phần thúc đẩy phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra hàng loạt hàng hóa phong phú từ đó giúp tăng kim ngạch xuất khẩu cho tỉnh.

3.3.1.4. FDI tạo nguồn thu Ngân sách Nhà nước


Hàng năm, thu ngân sách nhà nước tăng lên, trong đó nguồn thu từ cả khu vực FDI và khu vực trong nước cũng tăng lên.

Bảng 3.10. Thu ngân sách nhà nước từ khu vực các doanh nghiệp trong nước tại tỉnh Savannakhet giai đoạn 2010 – 2020

Đơn vị tính: Triệu USD



Năm

Nghĩa vụ thuế

Thuế giá

trị gia tăng

Thuế thu nhập

doanh nghiệp

Thuế thu

nhập cá nhân

Khác

Tổng

2010

14,83

3,27

0,49

23

18,59

2011

14,74

3,21

0,49

0,22

18,44

2012

14,17

2,81

0,43

0,19

17,41

2013

13,76

2,54

0,38

0,17

16,68

2014

14,28

2,89

0,44

0,20

17,61

2015

14,37

2,95

0,45

0,21

17,77

2016

14,10

2,66

0,41

0,20

17,17

2017

13,97

2,49

0,36

0,19

16,82

2018

13,98

2,49

0,36

0,17

16,83

2019

14,13

3,67

0,37

0,19

18,17

2020

13,02

2,10

0,31

0,16

15,43

Nguồn: Tổng cục Thuế tỉnh Savannakhet, 2021


Bảng 3.11. Thu ngân sách nhà nước từ khu vực FDI tại tỉnh Savannakhet giai đoạn 2010 – 2020

Đơn vị tính: Triệu USD



Năm

Nghĩa vụ thuế

Thuế giá trị

gia tăng

Thuế thu nhập

doanh nghiệp

Thuế thu

nhập cá nhân

Khác

Tổng

2010

1,41

0,95

0,14

0,06

2,56

2011

1,63

1,11

0,17

0,07

2,98

2012

1,77

1,19

0,18

0,08

3,22

2013

1,92

1,29

0,19

0,09

3,49

2014

2,06

1,39

0,21

0,09

3,75

2015

2,14

1,44

0,22

0,10

3,90

2016

2,16

1,56

0,22

0,11

4,05

2017

2,16

1,59

0,23

0,11

4,09

2018

2,19

1,60

0,22

0,12

4,13

2019

2,19

1,60

0,22

0,12

4,13

2020

2,09

1,41

0,20

0,09

3,79

Nguồn: Tổng cục Thuế tỉnh Savannakhet, 2021


Hình 3.5. Nguồn thu ngân sách nhà nước của khu vực trong nước và khu vực FDI tại tỉnh Savannakhet giai đoạn 2010 – 2020

Đơn vị tính: Triệu USD


14.00

12.00

10.00

8.00

6.00

4.00

2.00

0.00

2.52

2.923.15

3.42

3.68

3.81

3.95

4.04

3.97

4.02

3.72

9.62 9.46

8.43

7.70

8.63

8.79

8.19

7.84

7.85

9.18

6.44

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020

Doanh nghiệp trong nước

Doanh nghiệp FDI

Nguồn: Tác giả thống kê theo số liệu của Tổng cục Thuế tỉnh Savannakhet, 2021


Khu vực FDI có những đóng góp to lớn trong thu Ngân sách Nhà nước tại tỉnh.

Đóng góp từ khu vực FDI có xu hướng tăng qua các năm, cụ thể:


Năm 2010, tổng thu Ngân sách Nhà nước là 12,14 triệu đô, trong đó đóng góp từ khu vực FDI là 2,52 triệu đô, chiếm 20,76% tổng thu Ngân sách. Sang năm 2011, đóng góp từ khu vực khối các doanh nghiệp trong nước giảm so với năm trước, chỉ còn 9,46 triệu đô, tuy nhiên đóng góp từ khu vực FDI vẫn tăng là 2,92 triệu đô, chiếm 23,58% nên tổng mức thu Ngân sách Nhà nước năm 2011 so với năm 2012 vẫn tăng. Cùng chung xu hướng đó, đóng góp từ khu vực trong nước vẫn giảm đến năm 2013 chỉ đạt 7,69 triệu đô trong khi đóng góp từ khu vực FDI đều tăng và đạt 3,42 triệu đô chiếm 30,73%. Giai đoạn từ năm 2014-2015, cả đóng góp từ khu vực doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI đều có sự tăng. Tuy nhiên, từ 2016-2018, đóng góp từ khu vực trong nước lại giảm dần từ 8,19 triệu đô còn 7,85 triệu đô, trong khi mức đóng góp từ khu vực FDI vẫn tăng đều từ 3,95 triệu đô lên 4,02 triệu đô. Năm 2019, cả phần đóng góp từ khu vực trong nước và khu vực FDI đều có sự tăng trở lại, với mức tăng lần lượt là 9,18 triệu đô và 4,04 triệu đô.

Tuy nhiên sang năm 2020, do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19, cả phần đóng góp cho Ngân sách Nhà nước đến từ khối doanh nghiệp trong nước và khối doanh nghiệp FDI đều giảm xuống. Trong đó, khu vực nhà nước đóng góp 6,44 triệu đô la Mỹ và khu vực FDI đóng góp 3,72 triệu đô la Mỹ chiếm 40,6% trong tổng thu Ngân sách Nhà nước.

Có thể thấy, thu Ngân sách Nhà nước có sự tăng giảm không đều qua các năm. Nguyên nhân là do có sự giảm xuống về số lượng các doanh nghiệp trong nước, nhờ có nhân tố ảnh hưởng của việc thu hút FDI vào tỉnh có xu hướng tăng nên đã cân bằng lại một phần nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên số thu Ngân sách Nhà nước của tỉnh cũng còn phụ thuộc vào các nhân tố khách quan và chủ quan như xảy ra khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực, đại dịch Covid-19, việc sử dụng vốn chưa đạt hiệu quả cao cũng có thể làm giảm thu từ các công ty lớn của khu vực FDI. Như vậy, để tránh khỏi các vấn đề trước mắt, tránh việc thu Ngân sách Nhà nước đột ngột giảm, tỉnh cần đề ra các chính sách thu hút FDI và chính sách về thuế hợp lý hơn để tạo cho nền kinh tế nhiều thành phần cùng phát triển và đóng góp vào Ngân sách Nhà nước.


Đồng thời, tỉnh cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước về việc quản lý kinh tế khu vực nói chung và việc quản lý FDI nói riêng.

3.3.1.5. FDI tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và phát triển nguồn nhân lực


FDI góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động, đây là số lao động tuyển dụng vào các doanh nghiệp và các lao động khác được huy động vào các công việc hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ cho khu vực kinh tế.

Bảng 3.12. Số lao động tại tỉnh Savannakhet giai đoạn 2010 - 2020

Đơn vị: Người


Năm

Số lao động tại

tỉnh

Số lao động

trong khu vực FDI

Tỷ trọng (%)

2010

38424

5070

13,19

2011

38920

5124

13,17

2012

38010

5203

13,69

2013

37328

5293

14,18

2014

38824

5506

14,18

2015

39217

5527

14,09

2016

38737

5567

14,37

2017

38099

5580

14,65

2018

38001

5601

14,74

2019

38977

5609

14,39

2020

34616

5010

14,47

Nguồn: Tổng cục Thống kê tỉnh Savannakhet, 2021


Xét về số lượng, đội ngũ lao động được tuyển dụng vào khu vực FDI đã góp phần đáng kể trong việc giảm thất nghiệp cũng như góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh hiện nay.

Nhìn chung, giai đoạn từ 2010 -2020, tổng số lao động làm việc tại tỉnh có xu hướng tăng giảm không ổn định qua các năm tuy nhiên số lao động làm việc tại các doanh nghiệp FDI vẫn tăng ổn định. Cụ thể, năm 2010, lao động làm việc trong khu vực FDI là 5.070, chiếm 13,19%. Sang năm 2011, số lao động trong khu vực FDI


tăng là 5,124 chiếm 13,17%. Từ 2012-2013, số lao động tại tỉnh giảm từ 38.010 người xuống còn 37.328 người, trong khi số lao động tại khối FDI vẫn tăng từ 5.203 người lên 5.293 người, với tỷ trọng tương ứng là 13,69% và 14,18%. Giai đoạn 2014-2015, số lao động tại tỉnh lại tăng từ 37.328 người lên thành39.271 người. Trong đó, số lao động làm việc tại khối FDI tăng từ 5.506 người lên 5.527 người, chiếm tỷ trọng lần lượt là 14,18% và 14,09% trong tổng lao động. Giai đoạn 2016-2018, số lao động tại tỉnh lại giảm xuống từ 38.737 người còn 38.001 người. Trong khi số lao động làm việc tại khu vực FDI vẫn tiếp tục gia tăng từ 5.567 người lên 5.609 người, chiếm tỷ trọng lần lượt là 14,37% và 14,74%. Năm 2019, cả tổng số lao đông làm việc tại tỉnh và số lao động làm việc tại các doanh nghiệp FDI đều tăng, trong đó số lao động từ khối FDI là 5.609 người, chiếm 14,39% tổng lao động. Năm 2020, do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 mà số lao động tại tỉnh nói chung và tại các doanh nghiệp FDI đều giảm xuống. Số lao động làm việc tại các doanh nghiệp FDI chỉ còn 5.010 người, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng lao động, đạt 14,47%.

Theo những con số trên đây, có thể thấy khu vực FDI đã đóng góp một phần không nhỏ trong vấn đề giải quyết việc làm nhưng tỉnh vẫn cần phát huy tiềm năng thế mạnh của mình để tăng cường giải quyết việc làm cho người lao động. Do đó, để tăng lượng lao động cả tỉnh nói chung cũng như lượng lao động tại các doanh nghiệp FDI nói riêng, tỉnh cần tập trung đầu tư phát triển tay nghề cho người lao động thông qua một số hoạt động như mở trường dạy nghề, nâng cao kỹ năng của người lao động… Lý do là các doanh nghiệp FDI luôn đòi hỏi những lao động có trình độ cao, kỹ năng quản lý thành thục, có chất lượng.

3.3.2. Những tồn tại, hạn chế


3.3.2.1. FDI vào các ngành, các vùng mất cân đối


Trong quá trình triển khai các hoạt động đầu tư nước ngoài tại tỉnh Savannakhet đã có sự mất cân đối đáng kể về việc thu hút vốn đầu tư theo ngành. Cơ cấu đầu tư nhìn chung chưa hợp lý. FDI thường tập trung vào các ngành có điều kiện thuận lợi và dự kiến có thể thu lợi nhuận nhanh. Nhìn chung, vốn đầu tư vào nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao là do các doanh nghiệp nước ngoài chỉ muốn bỏ ra một khoản chi


phí thấp hơn khi có thể tận dụng được nguồn tài nguyên sẵn có, sử dụng được nguồn lao động đã có sẵn tay nghề với giá thành rẻ.

FDI chủ yếu tập trung ở khu vực phát triển của tỉnh vì có tiềm năng về giao thông, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng… Vùng sâu vùng xa vẫn gặp khó khăn, cơ sở hạ tầng đầu tư chưa có gì và nếu có thì cũng thiếu đồng bộ nên việc thu hút nhà đầu tư trở nên khó khăn.

3.3.2.2. FDI gây ra tác động tiêu cực trong cơ cấu lao động


Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh đã phát sinh một số tác động tiêu cực như gây ra việc chảy máu chất xám từ khu vực cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp quốc doanh của tỉnh sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng như một số tác động tiêu cực khác trong lĩnh vực văn hóa – xã hội. Do các doanh nghiệp FDI trả lương tương đối cao nên một số cán bộ kỹ thuật, quản lý được nhà nước đào tạo trong nhiều năm đã chuyển qua làm việc cho họ mà các doanh nghiệp này không cần phải bỏ chi phí và thời gian đầu tư cho khâu đào tạo cũng như không chịu các chi phí bảo hiểm xã hội sau này.

FDI làm tăng khoảng cách giàu nghèo giữa người lao động, nảy sinh các tệ nạn xã hội cũng như lối sống không lành mạnh, Do đó, bên cạnh việc thúc đẩy thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tỉnh cũng cần phải tìm ra những biện pháp để khắc phục những yếu điểm đó.

3.3.2.3. FDI gây ô nhiễm môi trường


Ô nhiễm môi trường đã và đang trở thành vấn đề bức bách. Cùng với quá trình gia tăng FDI tại tỉnh, kéo theo quá trình đô thị hóa nhanh dẫn đến sự quá tải ở trung tâm thành phố. Lượng rác thải sinh hoạt và khí thải độc hại thải ra của các doanh nghiệp quá lớn so với khả năng xử lý, gây nên ô nhiễm môi trường. Đây phần lớn là do hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vì nhiều nhà đầu tư thường chuyển giao công nghệ lạc hậu, công nghệ cũ, không phù hợp với điều kiện thực tế cũng thường kèm theo việc chuyển dịch những công nghệ và thiết bị gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.


Tuy vậy đối với Lào nói chung và tỉnh Savannakhet nói riêng, việc thu hút FDI là vô cùng quan trọng trong việc khai thác, tận dụng được tài nguyên, làm tăng thu Ngân sách, giải quyết được vấn đề việc làm. Nên tỉnh cần chú ý quan tâm và giải quyết để không làm ảnh hưởng đến môi trường.

3.3.2.4. Quy hoạch chưa rõ ràng


Quy hoạch, danh mục khuyến khích đầu tư chưa thực sự rõ ràng, còn nhiều bất cập. Do quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ chưa hình thành, hoặc chưa dự báo chuẩn xác, chưa lường hết được diễn biến phức tạp của thị trường nên việc thu hút FDI còn chưa theo quy hoạch. Có một số ngành, lĩnh vực chưa có quy hoạch nên khó khăn cho thu hút FDI như mạng lưới giao thông, viễn thông cũng như cơ sở hạ tầng để thu hút và đáp ứng FDI, chưa ban hành tiêu chuẩn điều kiện cấp phép như dự án khai thác khoáng sản gặp rất nhiều khó khăn do không quy hoạch rõ ràng và thường thay đổi, thủ tục cấp phép khảo sát thăm dò, tiến hành khai thác còn phức tạp.

Do còn thiếu quy hoạch về thu hút FDI nên định hướng thu hút chưa rõ ràng, chưa xác định được mục tiêu gọi vốn trọng tâm cho phù hợp với từng thời kỳ. Việc cấp phép đầu tư trong những năm gần đây còn chạy theo số lượng mà hiệu quả đạt được không cao.

3.3.2.5. Công tác quản lý và xúc tiến các dự án đầu tư nước ngoài còn yếu kém


Trong thời gian qua, sự trao đổi thông tin, phối hợp giữa các Bộ ngành từ trung ương đến địa phương nhằm hướng dẫn, cung cấp thông tin, thỏa thuận cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa tốt, đặc biệt là trong công tác quản lý sau cấp phép.

Công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài tại tỉnh mặc dù đã có nhiều chuyển biến tốt như tiến hành các chương trình kêu gọi xúc tiến đầu tư tại nước ngoài nhưng chưa được tổ chức thường xuyên và khâu tổ chức thực hiện chưa thực sự đem lại hiệu quả. Do thiếu kinh nghiệm cũng như kinh phí trong việc thiết lập các chương trình xúc tiến. Ngoài ra, những thông tin đưa ra để nhà đầu tư tham khảo về tình hình hoạt động của các dự án đầu tư còn thiếu đầy đủ. Số liệu có thể do rất nhiều các cơ quan tổng hợp nên có sự khác biệt. Nhà đầu tư cần số liệu chính xác và các thông tin chi tiết hơn về các lĩnh vực ngành nghề trước khi ra quyết định đầu tư.

Xem tất cả 178 trang.

Ngày đăng: 12/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí