Thực Trạng Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Mềm Cho Sinh Viên Ở Trường Cđsp Savannakhet

Theo ý kiến đánh giá của sinh viên, trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên ở Trường CĐSP Savannakhet thì hình thức dạy học trên lớp được nhiều lựa chọn nhất về mức độ thường xuyên sử dụng, đạt 55.76%; các hình thức hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên xếp thứ hai, đạt 41.82%; tiếp đến lần lượt là hình thức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (đạt 19.39%), hình thức hoạt động xã hội (18.79%) và cuối cùng là thông qua các hoạt động đoàn thể của khoa chuyên môn (14.55%).

Theo ý kiến đánh giá của giảng viên, hình thức dạy học trên lớp được nhiều lựa chọn nhất về mức độ thường xuyên sử dụng, đạt 91.49%; các hình thức hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên xếp thứ hai, đạt 55.32%; tiếp đến lần lượt là hình thức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (đạt 46.81%), thông qua các hoạt động đoàn thể của khoa chuyên môn (34.04%) và cuối cùng là hình thức hoạt động xã hội (21.28%).

Sự đánh giá của sinh viên và giảng viên về mức độ thường xuyên của các hình thức hoạt động giáo dục kỹ năng mềm là tương đối đồng thuận. Từ số liệu điều tra cho thấy các hình thức tổ chức hoạt động chưa đa dạng, tập trung chủ yếu vào hình thức dạy học trên lớp và hình thức hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên. Đây là hai hình thức cơ bản nhưng cũng không phải là tất cả. Mỗi hình thức đều có những thuận lợi nhất định trong quá trình hình thành và rèn luyện các kỹ năng mềm cụ thể cho sinh viên. Và sự không đa dạng các hình thức hoạt động đã làm giảm hiệu quả của các hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên ở Trường CĐSP Savannakhet.

Giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên là yêu cầu bức thiết của thời đại đối với các trường chuyên nghiệp trong đó có Trường CĐSP Savannakhet. Tuy nhiên, hiệu quả của các hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên không phải cứ muốn là được, mà nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Chúng tôi tìm hiểu thực trạng các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên ở Trường CĐSP Savannakhet và thu được kết quả thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2.7: Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên ở Trường CĐSP Savannakhet


STT


Các yếu tố ảnh hưởng

Ý kiến của SV

Ý kiến của GV

Số

lượng

Tỷ lệ %

Số

lượng

Tỷ lệ

%

1

Chương trình đào tạo của nhà trường

21

12.73%

17

36.17%

2

Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục

KNM của giảng viên

34

20.61%

15

31.91%

3

Tính tích cực, chủ động của sinh viên

36

21.82%

21

44.68%

4

Môi trường giáo dục nhà trường

28

16.97%

15

31.91%

5

Môi trường giáo dục cộng đồng

29

17.58%

17

36.17%

6

Tác động giáo dục gia đình

31

18.79%

11

23.40%

7

Cơ chế quản lí của nhà trường

8

4.85%

13

27.66%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên trường Cao đẳng sư phạm savannakhet nuớc CHDCND Lào - 9

Từ số liệu điều tra cho thấy không có nhiều sự đồng thuận khi đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên ở Trường CĐSP Savannakhet. Do giảng viên và sinh viên đứng ở những vị trí khác nhau trong quá trình giáo dục nên đã đưa ra những nhận định khác nhau.

Theo ý kiến đánh giá từ kênh sinh viên, tính tích cực, chủ động của sinh viên là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động giáo dục kỹ năng mềm (đạt 21.82% sự lựa chọn); năng lực tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng mềm của giảng viên xếp thứ hai (đạt 20.61%); tiếp đến lần lượt là các yếu tố tác động từ phía gia đình (18.79%), môi trường giáo dục cộng đồng (17.58%), môi trường giáo dục nhà trường (16.97%), chương trình đào tạo của nhà trường (12.73%) và cuối cùng là cơ chế quản lý của nhà trường (4.85%).

Theo ý kiến đánh giá từ kênh giảng viên, tính tích cực, chủ động của sinh viên là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động giáo dục kỹ năng mềm (đạt 44.68% sự lựa chọn); chương trình đào tạo của nhà trường và môi trường giáo dục cộng đồng cùng xếp thứ hai (đạt 36.17%), năng lực tổ chức hoạt động

giáo dục kỹ năng mềm của giảng viên và môi trường giáo dục nhà trường cùng xếp thứ ba (đạt 31.91%); tiếp đến lần lượt là các yếu tố cơ chế quản lý của nhà trường (27.66%), tác động từ phía gia đình (23.40%).

Tuy có nhiều ý kiến không thống nhất nhưng cả sinh viên và giáo viên đều khẳng định tính tích cực, chủ động của sinh viên là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến quá trình giáo dục kỹ năng mềm. Nhận định này hoàn toàn chính xác, phù hợp với bản chất của quá trình giáo dục nói chung và quá trình giáo dục kỹ năng mềm nói riêng. Và vì vậy, quá trình giáo dục kỹ năng mềm được tổ chức như thế nào chăng nữa thì trước hết cần phải chú ý đến việc phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên. Để làm được điều này thì cần sự phối hợp linh hoạt, nhuần nhuyễn của tất cả các yếu tố còn lại, cho dù đứng dưới góc độ nào để nhìn nhận.

Quá trình giáo dục kỹ năng mềm ở Trường CĐSP Savannakhet đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Để góp phần xây dựng được những biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục kỹ năng mềm, chúng tôi xin ý kiến giảng viên và sinh về những vấn đề cần quan tâm đổi mới và thu được kết quả ở bảng sau:

Bảng 2.8: Nhận định của giảng viên và sinh viên về các yếu tố cần thay đổi trong quá trình giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên ở Trường CĐSP Savannakhet


TT


Các yếu tố cần thay đổi

Ý kiến của SV

Ý kiến của GV

Số

lượng

Tỷ lệ

%

Số

lượng

Tỷ lệ

%

1

Nội dung các KNM cần được giáo dục

61

36.97%

17

36.17%

2

Phương pháp giáo dục KNM

28

16.97%

18

38.30%

3

Hình thức tổ chức hoạt động giáo dục

KNM

46

27.88%

15

31.91%

Theo ý kiến đánh giá từ kênh sinh viên, nội dung các kỹ năng mềm cần được giáo dục xếp thứ nhất về vấn đề cần thay đổi (đạt 36.97% sự lựa chọn

thay đổi). Vì cuộc sống luôn luôn thay đổi và chính sinh viên sẽ là những người hiểu rõ nhất mình cần những gì cho cuộc sống của mình. Hình thức tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng mềm xếp thứ hai (đạt 27.88% sự lựa chọn thay đổi). Hình thức tổ chức đa dạng, phong phú sẽ tạo nhiều cơ hội cũng như góp phần kích thích tính tích cực, chủ động của sinh viên khi tham gia các hoạt động giáo dục. Phương pháp giáo dục kỹ năng mềm xếp thứ ba (đạt 16.97% sự lựa chọn thay đổi). Phương pháp giáo dục là cách thức tác động qua lại giữa nhà giáo dục và đối tượng. Yêu cầu đổi mới phương pháp cũng chính là yêu cầu nhà giáo dục luôn phải làm mới chính mình để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục.

Theo ý kiến đánh giá từ phía giảng viên, nội dung cần được thay đổi nhiều nhất là phương pháp giáo dục kỹ năng mềm (đạt 38.30% sự lựa chọn thay đổi). Phương pháp là cách thức truyền tải nội dung nhằm đạt tới mục đích hoạt động. Phương pháp giáo dục tốt sẽ góp phần giúp cho sinh viên có được nhiều hơn nữa các kỹ năng mềm cũng như sự thành thạo các kỹ năng đó được tăng cao. Nội dung các kỹ năng mềm cần được giáo dục cho sinh viên xếp thứ hai (đạt 36.17% sự lựa chọn thay đổi). Hệ thống kỹ năng mềm mà mỗi sinh viên cần có rất đa dạng. Căn cứ vào nhu cầu thực tế của đời sống xã hội trong từng giai đoạn để lựa chọn được những kỹ năng mềm cần thiết nhất giáo dục cho sinh viên. Xếp cuối cùng là hình thức tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng mềm (đạt 31.91% sự lựa chọn thay đổi).

Căn cứ vào ý kiến đề xuất của sinh viên và giảng viên về các yếu tố cần thay đổi trong quá trình giáo dục kỹ năng mềm sẽ là cơ sở quan trọng để chúng tôi xây dựng hệ thống những biện pháp nâng cao hiệu quả của quá trình giáo dục.

Nguyên nhân của thực trạng

Qua phỏng vấn một số đại diện giảng viên và sinh viên kết hợp với kết quả khảo sát chúng tôi cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng giáo dục KNM của sinh viên trường CĐSP Savannakhet như trên là do:

Thứ nhất, nhà trường chưa có sự quan tâm đầu tư cho nội dung giáo dục này, nhà trường chủ yếu chú trọng giáo dục một số kỹ năng nghề nghiệp thông qua các môn học.

Thứ hai, bản thân rất nhiều giảng viên chưa hiểu hết về vai trò, ý nghĩa của nội dung giáo dục các KNM đối với sinh viên của nhà trường. Vì vậy sự đầu tư cho các hoạt động giáo dục các kỹ năng này còn rất hạn chế. Phương pháp và hình thức giáo dục còn mang tính tự phát chưa được đầu tư thiết kế và tổ chức một cách khoa học.

Thứ ba, bản thân sinh viên chưa nhận thức hết vai trò của các KNM đối với hoạt động nghề nghiệp và cuộc sống của bản thân nên chưa chú ý đến việc rèn luyện các kỹ năng này. Nhiều sinh viên còn có tính thụ động, một bộ phận sinh viên khác thì chú ý nhiều hơn đến việc học tập kiến thức chuyên ngành ít quan tâm đến các hoạt động giáo dục trong nhà trường nên kỹ năng khá hạn chế, đặc biệt những kỹ năng như kỹ năng hoạt động xã hội, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải tỏa căng thẳng và kiềm chế cảm xúc...

Thứ tư, chưa có môi trường giáo dục kỹ năng phù hợp với cơ chế quản lí giám sát của nhà trường. Cũng xuất phát tự nguyên nhân là sự nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của việc giáo dục các KNM cho sinh viên nên hiện nay nhà trường chưa có sự phối hợp chỉ đạo tổ chức thực hiện. Nhìn chung hoạt động giáo dục này tại trường Cao đẳng sư phạm Savannakhet còn mang tính tự phát rất rõ rệt.

Kết luận chương 2


Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên trường CĐSP nước CHDCND Lào cho thấy:

Một số GV và SV nhà trường chưa đầy đủ về vai trò, ý nghĩa và mục tiêu của hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên nhà trường; việc xác định nội dung các kỹ năng cưa thống nhất, sự chú trọng đâu tư cho hoạt động này còn chưa cao.

Việc tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên chưa thường xuyên, còn manh mún, rời rạc và còn nhiều biểu hiện tự phát. Chưa đảm bảo tính khoa học và sự tường minh.

Sự phối kết hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường chưa thường xuyên, hiệu quả không cao trong hoạt động GD kỹ năng mềm cho sinh viên của nhà trường. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phối hợp chưa tốt do hạn chế trong công tác truyền thống về hoạt động giáo dục này của nhà trường tới các tổ chức ngoài nhà trường, cộng đồng địa phương nơi trường đóng.

Chế tài và các công cụ phục vụ công tác kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm về hoạt động giáo dục kỹ năng mềm chưa sinh viên chưa có. Chủ yếu vẫn là đánh giá chung kết quả giáo dục của nhà trường theo quy chế đào tạo đã ban hành, chưa chú trọng đến quy chế đánh giá, kiểm tra dành riêng cho nội dung giáo dục này.

Để khắc phục những hạn chế yếu kém, đồng thời phát huy những mặt tích cực, tổ chức thực hiện tốt và có hiệu quả hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên của nhà trường, cần có được những biện pháp giáo dục khoa học, phù hợp với điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy được hoạt động giáo dục KNM của sinh viên đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra cho đối tượng là sinh viên sư phạm.

Chương 3

CÁC BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM SAVANAKHET

NƯỚC CHDCND LÀO


3.1. Nguyên tắc xây dựng biện pháp

3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống

Hệ thống là một tổng thể gồm nhiều yếu tố liên quan đến nhau như: mục tiêu, nội dung, phương pháp, điều kiện thức hiện và đánh giá kết quả. Các yếu tố này có mối quan hệ qua lại với nhau. Mỗi thay đổi của yếu tố nào đó đều có sự tác động lên yếu tố khác và ngược lại. Giáo dục KNM cho sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Savannakhet phải được xây dựng trên cơ sở thực hiện nguyên tắc tính hệ thống. Trong quá trình tổ chức hoạt động cần xác định rõ vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ của từng yếu tố và tác động của các yếu tố đến hoạt động, các hoạt động phải hướng vào việc phát triển kỹ năng cho sinh viên. Cần có sự thống nhất cao giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động để tạo thành một chỉnh thể thống nhất.

3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích

Tất cả các biện pháp quản lý phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm Savannakhet phải được xây dựng thống nhất để có được kết quả cuối cùng, đó là sự quan tâm đầu tư vật lực, trí lực và sự thống nhất đồng bộ của các lực lượng tham gia giáo dục phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên. Nhà trường cần có sự chỉ đạo đồng bộ về các văn bản tạo thành cơ sở pháp lý để thống nhất về nội dung, chương trình, hình thức tổ chức và cách thức tiến hành giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên. Vì vậy, khi lựa chọn mục tiêu phải đảm bảo rõ ràng và được quán triệt tới mọi thành viên của trường.

3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn

Phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên trường CĐSP Savannakhet đòi hỏi phải được xây dựng trên định hướng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước,của tỉnh Savannakhet và trên cơ sở thực tiễn của nhà trường, phù hợp với điều kiện thực tế, năng lực tổ chức hoạt động, nhận thức của GV và SV, CSVC, thiết bị của nhà trường. Nếu không đảm bảo tính thực tiễn thì không thể đáp ứng được yêu cầu giáo dục.

3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ giữa các lực lượng tham gia giáo dục

Các lực lượng giáo dục bao gồm: GV các khoa, giảng viên phụ trách hoạt động Hội, các tổ chức đoàn thể địa phương phải có sự đồng thuận về nội dung, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục. Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu nhà trường, gia đình và xã hội cần có sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ nhằm huy động cao nhất sức mạnh về vật chất và tinh thần trong hoạt động giáo dục.

3.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính chất lượng và hiệu quả

Các biện pháp đề xuất để giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm Savannakhet phải thực sự cần thiết để thực hiện cả trước mắt và lâu dài, đồng thời phải có khả năng thực hiện được. Do đó các biện pháp được lựa chọn phải phù hợp với điều kiện về nguồn lực của trường. Các biện pháp này phải mang lại kết quả cuối cùng cho SV đó là vốn kiến thức về kỹ năng mềm và khả năng thực hành nhất định và có tính khả thi cao thì việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên mới thực sự mang lại hiệu quả mong đợi.

3.1.6. Đảm bảo tính kế thừa và phát triển

Biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho sinh viên mang tính kế thừa và phát triển, cụ thể là: Đảm bảo tính liên tục trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên; đồng thời phát huy được mặt tích cực của biện pháp đã có, bổ sung thêm các biện pháp phù hợp với tình hình hiện tại và chiều hướng phát triển các biện pháp trong những năm tới.

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 12/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí