giao tiếp, cái đích hướng tới sẽ đạt được nhanh chóng và đầy đủ. Ngược lại, nếu không đạt được một yêu cầu nào đó thì hiệu quả giao tiếp sẽ không được như mong muốn. Do vậy, vấn đề quan trọng đặt ra cho mỗi chúng ta cần phải rèn luyện kĩ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt để nâng cao hiệu quả giao tiếp.
1.2.3. Hoạt động giáo dục
Hoạt động giáo dục có thể hiểu theo hai cấp độ:
- Theo nghĩa rộng: Hoạt động giáo dục là loại hình hoạt động đặc thù của xã hội loài người nhằm tái sản xuất những nhu cầu của và năng lực của con người để duy trì phát triển xã hội, để hoàn thiện các mối quan hệ xã hội thông qua các hình thức, nội dung, biện pháp tác động có hệ thống, có phương pháp, có chủ định đến đối tượng nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách trên tất cả các mặt đức, trí, thể, mĩ [25]
- Theo nghĩa hẹp: Hoạt động giáo dục là hoạt động sư phạm được tổ chức trong nhà trường một cách có kế hoạch, có mục đích. Trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người được giáo dục tích cực, chủ động tự giáo dục, tự rèn luyện nhằm hình thành cơ sở của thế giới quan nhân sinh quan khoa học, những phẩm chất, nét tính cách của người công dân người lao động. [25]
1.2.4. Giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt
Giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt là quá trình tác động có định hướng, mục đích, có kế hoạch của giáo viên tới học sinh, là quá trình giáo dục của nhà trường và các lực lượng liên đới nhằm đạt được mục tiêu đề ra và xác định mức độ đạt được về kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt.
1.2.5. Học sinh dân tộc tiểu số
Khái niệm dân tộc thiểu số được dùng để chỉ các nhóm người có những sự khác biệt về một phương diện nào đó với cộng đồng người chung trong xã hội. Họ có thể khác biệt với nhóm người đa số về phương diện ngôn ngữ và văn hoá. Khác biệt về nhận thức và tôn giáo, về hoàn cảnh kinh tế, điều kiện sống và thu nhập v.v...và đi kèm theo đó là sự khác biệt về phương thức ứng xử của cộng đồng đối với chính họ và như vậy học sinh dân tộc thiểu số là nững học sinh người dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Học sinh DTTS là người đồng bào các DTTS ngay từ lúc nhỏ các em sống
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số tại trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng - 1
- Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số tại trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng - 2
- Kỹ Năng Giao Tiếp Bằng Tiếng Việt
- Nội Dung Giáo Dục Kngt Bằng Tiếng Việt Cho Học Sinh Dtts Thpt
- Tổ Chức Hoạt Động Giáo Dục Kngt Bằng Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số Tại Trường Thpt
- Khái Quát Về Kinh Tế - Xã Hội Và Giáo Dục Huyện Thạch An, Cao Bằng
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
cùng gia đình nên thường xuyên phải nói tiếng dân tộc mình nhưng khi bước vào nhà trường thì buộc các em phải giao tiếp thành thạo tiếng Việt mới có thể theo học chương trình giáo dục, đào tạo hiện hành. Việc sử dụng KNGT bằng tiếng Việt còn hạn chế, gây cho các em có nhiều mặc cảm, thiếu tự tin, ngại đến lớp là một tron. Do vậy, việc giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Việt cho học sinh DTTS cần phải được coi trọng và thực hiện một cách thường xuyên, nghiêm túc nhằm giúp các em tự tin, có khả năng tiếp thu và giao tiếp bằng tiếng Việt một cách thành thạo, rút ngắn khoảng cách về khả năng học tập của các em học sinh thuộc các thành phần dân tộc khác nhau.
1.2.6. Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho HS DTTS tại trường THPT
Tiếng Việt được chọn làm ngôn ngữ chung cho các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt được cụ thể hoá bằng việc sử dụng công cụ giao tiếp phổ thông cả trong nhà trường thuộc về 2 dạng nói và viết, ngoài xã hội là thể hiện mục đích nhu cầu của đối tượng. Bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng Tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục THPT; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo. Vì thế có thể hiểu hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho HS DTTSTHPT được cụ thể hoá bằng:
- Khả năng HS cần hiểu nghĩa của từ trước khi học âm vần trong từ. Học sinh cần hiểu nghĩa các từ trong bài học, những từ khó là trạng từ, tính từ, danh từ trìu tượng.
- Thông qua tương tác với các bạn học bằng giao tiếp Tiếng Việt, cùng nhau học hỏi, khám phá và giải quyết vấn đề việc học sẽ hiệu quả hơn.
- Hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho HS DTTS tại trường THPT phải thể hiện rõ yêu cầu giao tiếp, mục đích phát triển ngôn ngữ, trải nghiệm, chia sẻ hoạt động nhóm xây dựng bài học, trang trí lớp… nâng cao sản phẩm của chính các em.
- HS học hiệu quả giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt trong môi trường
học tập an toàn, thân thiện, được hỗ trợ và được tôn trọng.
- Trẻ có vốn kiến thức tự tích lũy được từ gia đình, cộng đồng và truyền thống văn hóa dân tộc, dạy/ học kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho HS DTTS tại trường THPT cần dựa trên những gì các em đã biết.
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng việt cho học sinh DTTS đòi hỏi nhà trường THPT phải nắm vững chuẩn kỹ năng giáo tiếp bằng Tiếng Việt cần hình thành ở học sinh, tổ chức, hướng dẫn chỉ đạo giáo viên thiết kế được công cụ đánh giá và tổ chức quy trình đánh giá sát thực nhằm phản ánh đúng thực trạng giáo tiếp bằng Tiếng Việt ở học sinh, trên cơ sở đó có những biện pháp chỉ đạo điều khiển, điều chỉnh quá trình dạy học và giáo dục hiệu quả.
Quản lý giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng việt cho học sinh DTTS là quá trình tác động có định hướng, mục đích, có kế hoạch của hiệu trưởng tới giáo viên, học sinh, quá trình giáo dục của nhà trường và các lực lượng liên đới nhằm đạt được mục tiêu đề ra và xác định mức độ đạt được về kỹ năng giáo tiếp bằng Tiếng Việt, thái độ ở học sinh DTTS với các nội dung nghe, nói, đọc, viết trong những bối cảnh xác thực so với chuẩn đầu ra, trên cơ sở đó có biện pháp chỉ đạo điều khiển, điều chỉnh hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng tiếng việt của học sinh DTTS để nâng cao chất lượng giáo dục hai mặt trong trường THPT.
1.3. Những vấn đề cơ bản về hoạt động GD KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS trường THPT
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý và giao tiếp của học sinh DTTS THPT
1.3.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh DTTS THPT
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn có tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc đời của mỗi con người. Giáo dục phổ thông là điều kiện cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu cho việc đào tạo trẻ em trở thành những con người có nhân cách phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của xã hội và của đất nước. Chất lượng giáo dục phổ thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó năng lực hiểu học sinh (một thành tố của năng lực sư phạm của nhà giáo dục) có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, trên cơ sở hiểu được đặc điểm tâm lý của học sinh, nhà giáo dục sẽ lựa chọn được những biện pháp giáo dục và dạy học phù hợp, có hiệu quả. Việc dạy học Tiếng Việt cho học sinh người dân tộc ở
các tỉnh miền núi luôn là nhiệm vụ hàng đầu của những người đang giảng dạy tại nơi đây. Đó là việc day học Tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh THPT dân tộc thiểu số. Mục đích của việc giáo dục ngôn ngữ này là nhằm cung cấp cho các em một công cụ giao tiếp, một phương tiện tư duy nhất nhanh chóng hòa nhập cộng đồng, cùng sống dưới mái nhà chung Việt Nam, cùng chung tiếng nói, cùng sử dụng một ngôn ngữ, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng mới. Thế nhưng xét về mặt chất lượng hiệu quả giáo dục ngôn ngữ hiện nay đối với học sinh THPT là dân tộc thiểu số còn thấp. Học sinh không đủ vốn từ vựng Tiếng Việt để hiểu các môn học khác. Nguyên nhân của tình trạng trên là năng lực ngôn ngữ kiến thức Tiếng Việt của các em còn hạn chế. Muốn việc giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho học sinh dân tộc ở các trường THPT mang lại hiệu quả nhất định, các nhà giáo dục cần phải nắm bắt được đặc điểm tâm lý của học sinh THPT DTTS tại trường THPT.
- Đặc điểm nhận thức
Nhìn chung, các nét tâm lý, ý trí rèn luyện, óc quan sát, trí nhớ, tính kiên trì, tính kỷ luật...của học sinh dân tộc chưa được chuẩn bị chu đáo. Bên cạnh đó nhận thức cảm tính phát triển khá tốt, cảm giác, tri giác của các em có những nét độc đáo. Tuy nhiên nó chưa được hoàn thiện; cảm tính mơ hồ không thấy được bản chất của sự vật hiện tượng.
Khả năng phân tích tổng hợp, khái quát phát triển chậm, khả năng tư duy nói chung và khả năng tiến hành các tháo tác trí óc nói riêng hình thành khó khăn. Quá trình tư duy của các em chỉ đạt mức trung bình. Từ những đặc điểm tâm lý nói trên có thể thấy: khả năng tư duy kinh nghiệm đạt mức cao so với trình độ chung lứa tuổi; Song khả năng tư duy lý luận còn thấp so với yêu cầu. Tri thức thói quen được hình thành bằng con đường kinh nghiệm ảnh hưởng đến quá trình tiến hành các thao tác trí tuệ của các em; khả năng ghi nhớ có ý thức, có chủ định còn yếu. Đặc biệt về ngôn ngữ dùng quen tiếng mẹ đẻ, trong khi đó quá trình nhận thức, tiếp thu tri thức ở tương lai lại diễn ra bằng ngôn ngữ Tiếng Việt như vậy xét về mặt giao tiếp các em khó khăn.
Học sinh dân tộc có ưu điểm về thể chất, thể lực, có tính cách riêng, yêu lao động, quý thầy cô, tình bạn trung thực, dũng cảm, bên cạnh những học sinh rụt rè, nhút nhát, tự ti, tự ái, nhiều học sinh có lòng vị tha, ham hiểu biết đặc biệt là ý chí phấn đấu. Trong lối sống các em không bị gò bó, có những thói quen không tốt (như tác phong chậm chạp, thiếu ngăn nắp, thiếu vệ sinh) ảnh hưởng đến công tác giáo dục khi các em
theo học ở trường.
Cần trang bị cho học sinh ngôn ngữ phổ thông để mở rộng phạm vi nhu cầu giao tiếp, hiện thưc hóa những nhu cầu đặc trưng lứa tuổi và những nét riêng trong nhu cầu của học sinh dân tộc THPT hiện nay
- Tính tự ti, tự ái là những đặc điểm cơ bản của học sinh dân tộc THPT
Tính tự ti cộng với khả năng diễn đạt Tiếng Việt còn hạn chế, nhu cầu hưởng thụ đời sống tinh thần quá thấp so với học sinh Kinh tạo cho các em tâm lí khó hòa đòng.
Đồng thời học sinh dân tộc có tính tự ái cao, nếu các em gặp phải những lời phê bình nặng nề hoạc khi kết quả học tập kém, quá thua kém bạn bè một vấn đề nào đó trong sinh hoạt, bị bạn bè chê cười...các em dễ xa lánh thầy cô giáo, bạn bè và bỏ học. Nếu giáo viên không hiểu rõ sẽ thiếu nhiệt tình cần thiết để tìm ra phương hướng và biện pháp giải quyết những vướng mắc của các em
Ngoài ra trong học sinh dân tộc thiểu số, thường các em ít nói, e dè, dễ sấu hổ, thiếu những hoài bão, ước mơ cần thiết. Cho nên những tác động ngoại cảnh dễ làm chó các em này bỏ học, lấy chồng sớm
Tìm hiểu và nắm vững đặc điểm tâm sinh lí, cá tính, năng lực, hoàn cảnh, gia đình...của từng học sinh lớp chủ nhiệm. Quan tâm nhiều hơn đến học sinh là người dân tộc thiểu số, giáo dục và cảm hóa được học sinh tích cực tham gia vào việc học tập và các sinh hoạt tập thể.
1.3.1.2. Đặc điểm giao tiếp của học sinh DTTS THPT
* Nhu cầu giao tiếp bằng Tiếng Việt của học sinh DTTS THPT
Những yêu cầu của hoạt động và những mối quan hệ cơ bản của học sinh trong nhà trường, trong xã hội, cuộc sống hàng ngày sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu giao tiếp bằng Tiếng Việt của học sinh DTTS. Học sinh DTTS THPT giao tiếp bằng Tiếng Việt với những thành viên trong môi trường sống và học tập của họ với nhu cầu cơ bản: nhu cầu thông tin và nhu cầu tình cảm, nhu cầu cá nhân. Trong quá trình giao tiếp bằng Tiếng Việt, học sinh DTTS THPT hướng đến những thông tin cơ bản sau:
- Thông tin về hoạt động học tập: nội dung bài học, phương pháp học tập, tri
thức khoa học mới để hỗ trợ quá trình học tập, nghiên cứu trong nhà trường.
- Thông tin về các hoạt động khác trong nhà trường: hoạt động Đoàn Thanh niên, hoạt động ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao...
- Thông tin về giáo viên, về bạn bè
- Thông tin về bản thân: những nhận xét, đánh giá của người khác về bản thân mình, sự ảnh hưởng của bản thân đến người xung quanh.
Cùng với việc hướng đến thỏa mãn nhu cầu thông tin, trong quá trình tiếp xúc với giáo viên, bạn bè, các em hướng tới sự đồng cảm chung về tâm lý. Điều này được xuất phát từ nhu cầu tham gia môi trường, cộng đồng mới, được thừa nhận, trao đổi, được cùng hoạt động để đạt được mục đích trong cuộc sống.
* Nội dung giao tiếp bằng Tiếng Việt
- Giao tiếp nhận thức: Thông qua quá trình giao tiếp, tiếp xúc với giáo viên, bạn bè Học sinh DTTS tìm hiểu thêm được những tri thức mới, kinh nghiệm mới mức độ mở rộng hơn hẳn so với các giai đoạn trước, đồng thời thông qua giao tiếp các em tìm hiểu về người đối thoại, về chính bản thân mình.
- Giao tiếp công việc: Trong các giờ học, các buổi sinh hoạt lớp, trong các hoạt động chung, hoạt động trải nghiệm...các em thực hiện các vai trò cụ thể để thực hiện nhiệm vụ của bản thân.
- Giao tiếp xúc cảm: Trong quá trình tiếp xúc với đối tượng giao tiếp các em sẽ bộc lộ những thái độ xúc cảm của mình với người đối thoại và nội dung câu chuyện, từ đó thể hiện những cảm xúc, sự chia sẻ, niềm tin, tình cảm, sự tôn trọng...
* Đối tượng giao tiếp bằng Tiếng Việt của học sinh DTTS THPT
Học sinh DTTS THPT là đối tượng bước vào giai đoạn trưởng thành cũng đồng nghĩa với việc mỗi cá nhân được tham gia trong một môi trường giao tiếp với nhiều đối tượng giao tiếp mới và cách thức giao tiếp khác nhau. Đối tượng giao tiếp của học sinh DTTS thể hiện thông qua các nhóm giao tiếp. Bên cạnh các dạng nhóm chính thức trong nhà trường và ngoài nhà trường, trong cuộc sống của các em sẽ xuất hiện nhiều dạng nhóm không chính thức như: nhóm bạn thân, nhóm bạn cùng lớp, nhóm bạn cùng làng - xã, thôn - xóm, nhóm bạn cùng tham gia hoạt động, nhóm bạn cùng chung sở thích... Sự xuất hiện của nhiều nhóm bạn khác nhau khiến cho đối tượng giao tiếp của
các em trở nên phong phú, đa dạng, được mở rộng hơn rất nhiều về phạm vi giao tiếp.
Đối tượng giao tiếp của các em học sinh DTTS có liên quan đến phạm vi giao tiếp của các em. Nếu số lượng đối tượng giao tiếp của các em được tăng lên thì phạm vi giao tiếp của các em cũng được mở rộng. Khi bước vào môi trường THPT, học sinh đã có sự thay đổi về môi trường học tập, môi trường sống nên nhìn chung đối tượng và phạm vi giao tiếp của các em đa phần theo chiều hướng mở rộng, phong phú và đa dạng đồng thời phù hợp với đặc điểm liên quan đến hoạt động chủ đạo và đặc điểm nhân cách của các em ở giai đoạn này.
* Phạm vi giao tiếp
Đối tượng giao tiếp được mở rộng, nội dung giao tiếp gồm nhiều chủ đề có tính chất phức tạp, nó không còn gói gọn trong môi trường gia đình, làng bản nữa mà đó là môi trường rộng mở ở trường cùng những thầy cô và bạn bè mới đến từ nhiều dân tộc với nhiều nét văn hóa khác nhau, là môi trường sống mới cần sự đòi hỏi cao hơn về kĩ năng giao tiếp để dễ dàng sống và hòa nhập vào đó.
* Phương tiện giao tiếp
Tiếng Việt là ngôn ngữ chung để giao tiếp trong nhà trường và ngoài xã hội. Tuy nhiên cách thức sử dụng loại phương tiện này ở học sinh THPT DTTS lại chịu sự chi phối của khả năng sử dụng ngôn ngữ, hoàn cảnh giao tiếp và tính chất của các mối quan hệ của các em trong cuộc sống. Đối với học sinh THPT là người DTTS sự giao thoa ngôn ngữ giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt có thể chi phối cách sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong giao tiếp của họ. Điều này được biểu hiện qua cách phát âm, cách sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt,...của từng em.
1.3.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS trường THPT
Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu của mỗi con người sống trong xã hội Việt Nam, nhờ có kỹ năng giao tiếp mà con người có thể chung sống và hòa nhập trong một xã hội Việt Nam không ngừng biến đổi. Thực tế đã chứng minh con người hoạt động thành công và hiệu quả nhờ kĩ năng giao tiếp chiếm 60%. Giao tiếp là công cụ cực kì quan trọng của tất cả chúng ta trong đời sống và trong công việc. Kỹ năng giao tiếp tốt là chìa khóa để bắt đầu những những thành công khác. Giao tiếp còn là một cách thức không thể thiếu được giúp chúng ta tận hưởng cuộc sống trong xã hội Việt Nam.
Theo báo cáo gần đây nhất của UBDT Quốc Hội [24] thì tỷ lệ biết đọc, biết viết của người dân tộc thiểu số (DTTS) chỉ đạt 79,2% trong khi cả nước là 94,7%. Tỷ lệ học sinh DTTS đi học THPT chỉ đạt 41,8% và tỷ lệ biết chữ phổ thông thấp, ngoài việc động viên các em học sinh DTTS đi học THPT đã khó việc giúp các em có kỹ năng giao tiếp bằng tiếng việt được thành thạo cả là một vấn đề đối với các nhà làm chính sách về giáo dục. Đặc điểm học sinh DTTS có tính thẳng thắn, thật thà và tự trọng cộng với khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn hạn chế. Các em học sinh DTTS thường có lòng tự trọng cao, nếu các em gặp phải những lời phê bình nặng nề, gay gắt hoặc khi kết quả học tập kém, quá thua kém bạn bè một vấn đề nào đó trong sinh hoạt, bị dư luận bạn bè chê cười,... các em dễ xa lánh thầy cô giáo và bạn bè hoặc bỏ học…
Giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho HS DTTS THPT có ý nghĩa vai trò rất lớn nhằm nâng cao khả năng sử dụng Tiếng Việt, bảo đảm cho các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng Tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục THPT; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển chung của tỉnh.
Giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS THPT là một nhiệm vụ quan trọng không chỉ góp phần khắc phục những hạn chế về ngôn ngữ đối với học sinh mà qua đó còn từng bước nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục THPT vùng dân tộc thiểu số. Tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo, đồng thời xóa bỏ rào cản về ngôn ngữ để học sinh người dân tộc thiểu số ngày càng tiến bộ hơn trong học tập, được tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến, hiện đại để trở thành những con người tri thức đóng góp cho sự phát triển của xã hội, của đất nước.
Hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông là một nội dung hết sức quan trọng, giúp các em học sinh tự tin hơn, ứng xử có văn hóa, ý thức chung sống trong cộng đồng thực sự thân thiện,giải quyết hợp lý các tình huống mâu thuẫn, xung đột. Chính các em là người biết lên tiếng, biết bảo vệ lẽ phải, có thái độ lên án và kiên quyết bài trừ mọi hành vi bạo lực. Các em sẽ chủ động nhiều hơn trong cuộc sống của chính mình. Việc GD KNGT bằng Tiếng Việt cho học