ngành, yêu nghề của mỗi cán bộ giáo viên. Đặc biệt có nhiều chương trình liên kết với các cơ sở giáo dục nhằm bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn cho cán bộ giáo viên chuyên trách, kiêm nhiệm trong việc rèn luyện và giáo dục kỹ năng sống và KNGT bằng Tiếng Việt cần thiết cho học sinh. Bên cạnh đó việc xét thưởng kịp thời cho CB, GV và HS mỗi đợt thi đua, các phong trào của nhà trường và cấp trên trong suốt năm học đã là nguồn động viên, khích lệ CB, GV và HS tích cực tham gia hăng hái, phấn đấu, nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Việc sinh hoạt tổ chuyên môn được duy trì đều đặn và có chiều sâu. Đã xây dựng một số kế hoạch cụ thể phát triển KNGT bằng Tiếng Việt thông qua hoạt động trải nghiệm từ ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn và các giáo viên phụ trách phục vụ công tác giáo dục theo từng tuần, từng tháng.
Một yếu tố quan trọng trong việc giáo dục và phát triển toàn diện học sinh không thể thiếu được đó là sự quan tâm của địa phương, của gia đình và toàn xã hội. Bởi vậy, trong huyện đã có nhiều chương trình hoạt động giao lưu, chia sẻ giúp học sinh phát triển KNGT bằng Tiếng Việt dành cho tất cả các đối tượng. Đã có kế hoạch phát triển KNGT cho học sinh thông qua các hoạt động như Hội thao, các hoạt động giao lưu văn nghệ. Nhà trường có chương trinh, kế hoạch, nội dung và tập huấn, cho toàn thể CBGV về giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho HS DTTS. Đồng thời, tạo điều kiện, động viên cho HS tham gia đầy đủ các hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho HS DTTS của các nhà trường.
2.6.2. Nhược điểm
Trong các năm học vừa qua các nhà trường vẫn chưa đưa hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS trở thành một hoạt động bắt buộc vì thế qua khảo sát thấy việc áp dụng giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh một cách phổ biến nhất là lồng ghép vào một số môn học và các hoạt động ngoài giờ. Bên cạnh đó cũng chưa có hình thức, phương pháp, kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện của HS một cách thống nhất để bảo đảm trung thực, khách quan. Nguyên nhân là do thiếu văn bản quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp. Mới có các buổi tập huấn đồng loạt tại các cụm điểm, các miền. Theo đó, GV và các CBQL của một số trường đã được tham dự tập huấn. Song, do tập huấn trong thời gian ngắn, nên chưa có đánh giá thực tế đối với hoạt động triển khai tại các trường.
Trên thực tế, lâu nay giáo viên chỉ tập trung dạy kiến thức văn hóa cho học sinh mà chưa có ý thức bồi dưỡng thêm kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho học sinh đặc
biệt là đối với học sinh DTTS nên khi thực hiện dạy lồng ghép rất lúng túng, đặc biệt là đội ngũ giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm trong dạy học. Nội dung phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học tập với đánh giá cho học sinh vẫn chưa rõ ràng, chung chung. Đánh giá của GV đối với HS DTTS về KNGT bằng Tiếng Việt vẫn ở mức chung chung như: tích cực, chưa tích cực, cần cố gắng … Chưa có tiêu chí rõ ràng, thiếu tính đa dạng và nhận xét riêng biệt đối với từng cá nhân học sinh.
Công tác phát triển đội ngũ GV và CBQL giáo dục về năng lực chuyên môn, kỹ năng xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục theo định hướng phát triển năng lực HS, tổ chức, xây dựng các hoạt động trải nghiệm lồng ghép còn chưa thực sự được quan tâm đầy đủ. Thiếu giáo viên chuyên trách về giáo dục KNS, KNGT bằng Tiếng Việt cho HS DTTS, các giáo viên cấp THPT hiện nay phải kiêm nhiệm vì nội dung giáo dục kỹ năng chủ yếu được tích hợp trong các môn học, hoạt động ngoài giờ lên lớp. Về kiến thức, họ có thể truyền đạt nhưng đã gọi là kỹ năng thì đòi hỏi phải thực hành thao tác. Hầu hết GV còn nhiều lúng túng, ít giao tiếp được bằng tiếng dân tộc, nên dẫn đến còn lúng túng trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS. Bên cạnh đó là tâm lý lứa tuổi THPT đang phát triển nên hoạt động tự đánh giá của HS, đánh giá lẫn nhau của HS còn lúng túng, chưa có định hướng rõ ràng, và mục đích của học sinh là thi TNPT và đại học. Bản thân GV vẫn chưa thực sự nắm bắt được các nội dung cần trong đánh giá. Các hướng dẫn, văn bản còn mang tính chung chung, khó áp dụng vào thực tiễn. Mức độ nhận biết và quan tâm của nhà trường, Ban giám hiệu cũng chưa thực sự được sâu sát với HS nên thường dựa vào đề xuất của GVCN, đóng góp của GV bộ môn để đưa ra đánh giá của nhà trường.
Ngoài ra, các hoạt động được áp dụng vẫn còn mang nặng tính lề lối, chưa phát huy năng lực sáng tạo và sự chủ động của HS. Các hoạt động được tổ chức ở nhà trường thường tập trung vào các hoạt động văn hóa, văn nghệ, song chưa có cơ hội cho tất cả các HS được tham gia mà thường căn cứ vào sự chỉ định của GV, phân công của GV thông qua tính cách, tính chủ động của các em. Điều này có thể dẫn đến một số HS được đào tạo kỹ năng tốt, còn một số khác thì không, tham gia theo yêu cầu, không thực sự có nhiệt tình và mong muốn trau dồi kỹ năng của bản thân.
Các đánh giá của gia đình và của xã hội cũng chưa có tiêu chuẩn, tiêu chí rõ ràng. Hiện nay chưa có hệ thống tiêu chí, các công cụ đánh giá và các thang đo phù hợp để đánh giá kết quả của hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS.
2.6.3. Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Về Kỹ Năng Giao Tiếp Bằng Tiếng Việt Của Học Sinh Thpt Là Người Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Huyện Thạch An, Tỉnh Cao Bằng
- Thực Trạng Các Phương Pháp Tổ Chức Giáo Dục Kngt Bằng Tiếng Việt Cho Học Sinh Dtts Ở Các Trường Thpt Huyện Thạch An, Cao Bằng
- Thực Trạng Quản Lý Kiểm Tra, Đánh Giá Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Giao Tiếp Bằng Tiếng Việt Cho Hs Dtts Tại Các Trường Thpt Huyện Thạch An, Cao Bằng
- Các Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Kỹ Năng Giao Tiếp Bằng Tiếng Việt Cho Học Sinh Dtts Tại Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Thạch An, Tỉnh Cao
- Phát Triển Môi Trường Giao Tiếp Bằng Tiếng Việt Ở Gia Đình Và Cộng Đồng Cho Học Sinh Dtts
- Đối Với Các Trường Thpt Tại Huyện Thạch An, Tỉnh Cao Bằng
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Sự chỉ đạo và kế hoạch về việc giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS của các cấp chưa thực sự rõ ràng, nên việc thực hiện của các trường còn tự phát, không thường xuyên. Các giáo viên chưa ý thức đầy đủ về việc tích hợp giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS với các hoạt động giáo dục. Đa số học sinh DTTS cấp THPT chưa có những kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cơ bản. Rất ít học sinh được tiếp cận ở mức độ thường xuyên.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS các trường THPT huyện Thạch An, Cao Bằng:
- Chưa có văn bản chỉ đạo rõ ràng từ các cấp.
- Mức độ nhận thức của giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục với tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm trong giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS còn hạn chế.
- Thiếu nguồn tài liệu tham khảo, hướng dẫn chi tiết đối với các giáo viên trong việc xây dựng, thiết kế các kế hoạch, chương trình giáo dục phát triển KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS.
- Bản thân giáo viên giảng dạy cũng chưa thực sự nắm rõ các kỹ năng cần giảng dạy, truyền đạt đối với học sinh DTTS. Đa số là giáo viên trẻ chưa có kinh nghiệm trong lồng ghép các nội dung giáo dục.
- Chưa huy động được tính tích cực và sự chủ động phối hợp của các lực lượng ngoài nhà trường trong việc phát triển kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS.
- Chưa có các chế tài khuyến khích, động viên các giáo viên và học sinh trong công tác giảng dạy và giáo dục.
Trong công tác quản lý nội dung, hầu hết lãnh đạo trường chỉ đạo, ấn định nội dung GD KNGT bằng Tiếng Việt đến GV, các tổ chức đoàn thể mà ít khi tổ chức các cuộc họp để trao đổi, thông qua; việc phân công triển khai các nội dung GD KNGT bằng Tiếng Việt mới chỉ thực hiện theo đặc điểm môn học, chưa phân công trách nhiệm cho từng cá nhân cụ thể. Do đó, việc chỉ huy điều hành, thực hiện thiếu tính chủ động, chưa sáng tạo và mang tính đối phó.
Điều kiện hỗ trợ công tác GD KNGT bằng Tiếng Việt chưa đảm bảo thường xuyên, chất lượng đội ngũ làm công tác GD KNGT bằng Tiếng Việt chưa chuyên sâu. Sự phối hợp của các lực lượng làm công tác GD KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh nhìn chung chưa đồng bộ.
Kết luận chương 2
Qua điều tra khảo sát về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh các trường THPT huyện Thạch An cho thấy việc tổ chức các hoạt động tập trung cho học sinh đặc biệt các hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho HS DTTS là điều rất cần thiết, Mặc dù tâm lý chung các em HS DTTS còn rụt rèn kém tự tin khi sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt giao tiếp, tuy nhiên thông qua việc tổ chức lồng ghép các hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt trong giảng dạy, trong các hoạt động mà HS DTTS đã có cơ hội tiếp xúc và trau dồi kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt.
Nhà trường và đội ngũ GV đã và đang chú trọng đầu tư và đã góp phần quan trọng trong việc quản lý chương trình, nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho HS DTTS. Qua nghiên cứu, đã chỉ ra thực trạng về GD KNGT bằng Tiếng Việt, thực trạng về Quản lý GD KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS tại huyện Thạch An, qua đó phân tích được những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý GD KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh.
Kết quả khảo sát hoạt động quản lý hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh có thể thấy đa số cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh các trường đã nhận thức đúng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Tuy nhiên vẫn còn một số cán bộ quản lý, giáo viên chưa nhận thức đúng và đầy đủ về hoạt động giáo dục này. Nội dung giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt chưa được giáo viên lồng ghép và chưa được tiến hành thường xuyên dẫn đến học sinh vẫn còn kém trong giao tiếp, còn rụt rè, lúng túng trong giải quyết và xử lý tình huống. Các phương pháp và các biện pháp giáo dục giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh chưa được giáo viên kết hợp hài hòa và chưa có hiệu quả rõ ràng. Bước đầu các nhà trường đã nắm được tinh thần chỉ đạo của ngành giáo dục là giáo dục toàn diện học sinh cả về đức - trí
- thể - mĩ. Đã bước đầu tổ chức triển khai, tuyên truyền và phân công trách nhiệm tới từng cán bộ giáo viên phụ trách rèn luyện, bên cạnh đó cũng lồng ghép chương trình giáo dục vào các môn học, giờ học, các hoạt động ngoài giờ,… Qua đó KNGT bằng Tiếng Việt của học sinh DTTS bước đầu đã được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, các hội thi, hoạt động giao lưu, hoạt động nhân đạo, tình nguyện, hoạt động cộng đồng, sinh hoạt tập thể, lao động công ích, sân khấu hóa (kịch, thơ, hát, tiểu phẩm,…), thể dục
thể thao, tổ chức các ngày hội,… Thông qua các hoạt động trải nghiệm học sinh rất hứng thú và chủ động tích cực tham gia học tập.
Công tác giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS tại trường THPT huyện Thạch An vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân do điều kiện tại các trường chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu kinh phí, cần có sự phối hợp chung tay của các cấp, các ngành và xã hội. Bên cạnh đó, việc các em sau khi trở về nhà, gia đình giao tiếp bằng tiếng dân tộc nên là những hạn chế đáng kể đến ngôn ngữ Tiếng Việt của các em. Ngoài ra, nhà trường còn gặp khó khăn trong khâu tổ chức, kiểm tra, đánh giá hoạt động GD KNGT bằng Tiếng Việt cho HS DTTS.
Nguyên nhân của thực trạng trên do các trường THPT huyện Thạch An đều nằm trên vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí thấp, môi trường giao tiếp hẹp. Học sinh là con em người dân tộc thiểu số nên vốn ngôn ngữ phổ thông còn nhiều hạn chế. Chưa có môi trường thuận lợi trong học tập dẫn đến thiếu kỹ năng trong giao tiếp bằng Tiếng Việt. Chưa có sự quan tâm thường xuyên của các cấp quản lý, mối quan hệ giữa gia đình - nhà trường - xã hội chưa thực sự được phát huy trong việc giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS.
Như vậy, Cần phải tiến hành đồng bộ cả chương trình, kế hoạch giáo dục cụ thể, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, giáo viên chuyên trách có trình độ chuyên môn và nhận thức rõ ràng tầm quan trọng việc giáo dục kĩ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS. Tạo môi trường thuận lợi cho học sinh được tham gia các hoạt động và học tập. Phát huy vai trò quan trọng trong giáo dục của gia đình - xã hội và các lực lượng giáo dục. Có như vậy mới nâng cao được chất lượng Giáo dục KNGT bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS tại huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.
Chương 3
BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP BẰNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI CÁC TRƯỜNG THPT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THẠCH AN, TỈNH CAO BẰNG
3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho học sinh DTTS tại trường THPT trên địa bàn huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa
Các biện pháp phải căn cứ vào thực trạng quản lý của Hiệu trưởng, kế thừa các biện pháp đã thực hiện nhưng có sự cải tiến phù hợp với tình hình mới. Công tác quản lý hoạt động giáo dục này đòi hỏi phải tiến hành một cách lâu dài, có hệ thống và việc hình thành từng phẩm chất nói riêng, phải dựa vào những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, kinh nghiệm sống của học sinh, phải thực hiện theo từng bước, từng cấp, phải tiến hành liên tục, thường xuyên.
Yêu cầu của nguyên tắc:
- Trong quá trình phát triển các kỹ năng, mỗi kỹ năng khi đã được hình thành cần phải được củng cố, luyện tập, nâng cao.
- Việc phát triển kỹ năng HS phải được thực hiện liên tục, trong mọi hoàn cảnh, mọi môi trường, trong sự kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục.
- Phát triển các kỹ năng cần được thực hiện đồng bộ nhưng từng thời điểm có những kỹ năng được ưu tiên, chú ý phát triển hơn.
3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Mỗi trường có đặc điểm khác nhau về nhiều mặt như cơ cấu và trình độ đội ngũ giáo viên, đặc điểm nhận thức của học sinh, đặc điểm văn hóa giáo dục của từng địa phương, điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật. Vì vậy hệ thống biện pháp phải phù hợp với thực tiễn, có tính linh hoạt mềm dẻo và cụ thể, từ đó khắc phục được hạn chế trong quản lý hoạt động dạy học, đồng thời có điều kiện khả thi trên địa bàn.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- Trong quá trình dạy học GV phải nắm vững đặc điểm và trình độ nhận thức, phương pháp tự học của HS
- GV cần nắm được nhu cầu, hứng thú của mỗi HS đối với hoạt động giao tiếp.
- Phải lựa chọn nội dung phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đặc điểm tâm lý đối tượng HS, phù hợp với từng trình độ nhận thức của HS. Đặc biệt GV phải biết vận dụng, phối hợp các phương pháp dạy học nhằm huy động sự tham gia của mọi thành viên trong lớp vào quá trình hình thành, phát triển các kỹ năng.
- GV phải giúp người học nhận thức rõ về vai trò, ý nghĩa của hoạt động giao tiếp bằng Tiếng Việt với HS với thực tiễn giáo dục phổ thông hiện nay.
3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả
Đây là nguyên tắc phù hợp với mục tiêu quản lí, bao gồm hiệu quả giáo dục, hiệu quả xã hội và hiệu quả của bản thân hoạt động quản lí. Có thể nói hiệu quả là thước đo năng lực của người cán bộ quản lí giáo dục. Thực chất của nguyên tắc này là làm như thế nào để trong điều kiện nguồn lực nhất định, với thời gian cho phép, nhà quản lí có thể tạo ra nhiều kết quả có chất lượng, đạt mục tiêu giáo dục và mục tiêu quản lí như mong muốn. Nguyên tắc hiệu quả quản lí có quan hệ chặt chẽ với kết quả quản lí. Có thể một hoạt động quản lí nào đó là có kết quả nhưng chưa chắc đã có hiệu quả bởi tiêu tốn nhiều sức lực của không chỉ những nhà quản lí, mà còn của giáo viên và học sinh.Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả đòi hỏi các biện pháp đề ra phải đảm bảo khắc phục được những tồn tại, hạn chế đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động dạy học theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- GV phải biết phát huy tới mức cao nhất năng lực sẵn có của HS, tăng cường các hoạt động tự học, tự nghiên cứu của học sinh.
- Trong quá trình hướng dẫn GV cần theo dõi tình hình lĩnh hội tri thức của HS để kịp thời có những biện pháp điều khiển, điều chỉnh cho phù hợp.
- Giáo viên cần tạo môi trường học tập đa dạng phong phú để học sinh có cơ hội học tập, nghiên cứu, rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt.
3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi
Việc đề xuất các biện pháp bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho HS DTTS phải đảm bảo tuân thủ nghiêm lý thuyết khoa học. Đây là cơ sở lý
luận để đề xuất phương pháp, song phải dựa trên cơ sở phù hợp với thực tiễn, phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, phải tăng cường tìm hiểu thực tế và khả năng thực hiện của biện pháp. Biện pháp có được xây dựng với lý thuyết tốt đến mấy cũng sẽ trở lên vô nghĩa khi thiếu thực tiễn và tính khả thi.Để thực hiện nguyên tắc này GV cần:
- GV phải thường xuyên nêu ra những dẫn chứng, ví dụ, tình huống giao tiếp bằng Tiếng Việt cụ thể trong hoạt động dạy học ở trường phổ thông và ngoài xã hội.
- GV phải nắm được vốn sống, vốn kinh nghiệm của người học và khai thác vốn sống, vốn kinh nghiệm đó trong việc giải quyết các nhiệm vụ đề ra.
- Mọi hoạt động dạy học của GV đều hướng vào người học, nhằm phát huy tới mức cao nhất tính tự giác, tính tích cực, tính độc lập, sáng tạo của HS
3.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ
Các biện pháp phải được tổ chức hợp lý sao cho tác động có hệ thống và đồng bộ đến các thành tố của quán trình dạy học nhằm tạo ra những thay đổi của quá trình này. Vì vậy, các biện pháp quản lý phải được thực hiện để tác động vào mọi khâu của quá trình, tạo ra những điều kiện tối ưu cho việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý hoạt động giáo dục. Để thực hiện nguyên tắc này GV cần:
- Phối hợp với các cấp quản lý trong trường tạo cho học sinh có nhiều cơ hội tham gia vào các hoạt động trong và ngoài nhà trường nhằm tăng khả năng giao tiếp bằng Tiếng Việt
- GV phải không ngừng tham gia các hoạt động nâng cao năng lực giao tiếp bằng Tiếng Việt của bản thân.
- Bằng nhiều kỹ thuật dạy học GV cần tạo ra môi trường học tập hợp tác giữa GV với HS, giữa HS với HS nhằm khai thác vốn Tiếng Việt, vốn kinh nghiệm của HS vào giải quyết các nhiệm vụ đề ra, giải quyết các bài tập tình huống.
- Trong quá trình phát triển kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho học sinh giáo viên cần tăng cường các hình thức thảo luận, làm việc theo nhóm, các hình thức tự học, tự nghiên cứu của học sinh nhằm rèn luyện cho học sinh một hệ thống kỹ năng tương ứng hỗ
trợ cho phát triển kĩ năng giao tiếp bằng Tiếng Việt.