Tuyến phòng thủ thứ hai là khối/bộ phận quản lý rủi ro làm nhiệm vụ đầu mối giúp Ban điều hành giám sát theo dõi rủi ro một cách độc lập với bộ phận tác nghiệp. Trong thực tế, bộ phận này tồn tại song song cùng với các phòng ban tác nghiệp như phòng quan hệ khách hàng, phòng thẩm định và phòng quản lý nợ. Do đứng bên ngòai quá trình tác nghiệp, nên bộ phận quản lý rủi ro có tính độc lập tương đối và được xem là tuyến phòng vệ thứ hai rất hữu hiệu trong quản trị rủi ro theo xu hướng hiện đại.
Tuyến phòng thủ thứ ba là bộ phận kiểm toán nội bộ của ngân hàng, Cũng thực hiện vai trò giám sát rủi ro, nhưng tính độc lập của Bộ phận kiểm tóan nội bộ cao hơn của bộ phận quản lý rủi ro, do bộ phận này trực thuộc Ban kiểm soát và Đại hội đồng cổ đông (không trực thuộc Ban điều hành như bộ phận quản lý rủi ro). Do đảm bảo tính khách quan trong kiểm soát tính tuân thủ, tính hiệu quả của bộ phận quản lý rủi ro, cũng như của hệ thống kiểm soát nội bộ trong toàn ngân hàng nên bộ phận kiểm toán nội bộ có vai trò của tuyến phòng thủ thứ ba trong mô hình quản trị của các ngân hàng thương mại hiện nay.
2.3.1.3. Hầu hết các ngân hàng đã xây dựng được quy trình cấp tín dụng chặt chẽ,
tạo điều kiện để kiểm soát rủi ro tín dụng ngay từ khi mới xuất hiện.
Mặc dù có sự khác nhau giữa các ngân hàng, nhưng về cơ bản quy trình tín dụng đều đã được các ngân hàng xây dựng hết sức chặt chẽ, bao gồm nhiều bước đi cụ thể, có sự nối kết, kế thừa và mang nội dung kiểm soát lẫn nhau giữa các bước/các khâu trong quy trình. Trong khâu thẩm định /phân tích tín dụng - một nội dung của quy trình tin dụng, các ngân hàng đã chú trọng phân tích tình hình hoạt động của người vay, nghiên cứu, nâng cao chất lượng thẩm định các khoản vay, các dự án đầu tư, chú ý phân tích hiệu quả cà các yếu tố tác động đến dự án để thấy được rủi ro của khoản vay. Thực hiện tốt việc kiểm tra tín dụng, phối hợp tốt với kiểm soát nội bộ trong việc kiểm tra chéo.
Trong khâu quyết định tín dụng, các ngân hàng đã tách bạch giữa người thẩm định và cấp phê duyệt tín dụng, đáp ứng quy tắc “bốn mắt” trong kiểm soát nội bộ. Ở một số ngân hàng còn có sự tách biệt độc lập của bộ phận thẩm định tài sản đảm bảo, chuyên thẩm định liên quan đến bảo đảm tín dụng, hỗ trợ cho việc ra quyết định tín dụng. Việc
chuyển từ cơ chế thẩm định phê duyệt tín dụng phân tán tại các chi nhánh, sang cơ chế thẩm định phê duyệt tập trung (tại Hội sở) của các ngân hàng như ACB, Ngân hàng An Bình, ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu, ngân hàng Đông Á cũng góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu sai sót trong khâu ra quyết định tín dụng. Đây là một trong những ưu điểm nổi bật trong công tác quản trị rủi ro tín dụng ở các ngân hàng Việt Nam thời gian qua.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng
- Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Thuộc Nhóm 3
- Đánh Giá Công Tác Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại
- Nguyên Nhân Dẫn Đến Hạn Chế Trong Công Tác Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại .
- Định Hướng Hoàn Thiện Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Việt Nam Trong Thời Gian Tới
- Hoàn Thiện Các Chính Sách Liên Quan Đến Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.
2.3.1.4. Một số ngân hàng đã xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ nhằm đo lường rủi ro giao dịch tín dụng.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là công cụ quan trọng để đánh giá rủi ro tổng thể của ngân hàng đối với một khách hàng. Theo quy định của ngân hàng Nhà nước trong Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005, các ngân hàng thương mại đã tiến hành xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, chạy thử, sau đó đệ trình lên Ngân hàng Nhà nước cho chính thức áp dụng. Trong hệ thống xếp hạng nội bộ, khách hàng được đánh giá và giám sát chất lượng tín dụng theo phương pháp chấm điểm, với một thang điểm thống nhất đánh giá các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng được sử dụng để xem xét cấp tín dụng, phân loại nợ và quản lý rủi ro theo danh mục khách hàng. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng thường được cấu trúc riêng biệt đối với ba nhóm đối tượng khách hàng chính bao gồm: nhóm khách hàng doanh nghiệp (doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp tiềm năng), nhóm khách hàng cá nhân/hộ kinh doanh và nhóm khách hàng là định chế tài chính. Mặc dù hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chỉ giúp ngân hàng đo lường rủi ro giao dịch, chưa đánh giá được rủi ro danh mục tổng thể, nhưng việc xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cũng cho thấy bước tiến mới của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình vận dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro vào điều kiện cụ thể tại Việt Nam.
2.3.2 Những hạn chế trong quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
2.3.2.1. Môi trường quản trị rủi ro tín dụng nói chung chưa đáp ứng được các yêu cầu của Ủy ban Basel và thông lệ quốc tế.
Trước hết phải đề cập đến việc hoạch định chiến lược còn khá đơn giản ở tất cả các ngân hàng thương mại. Hầu hết chỉ mang nội dung định hướng phát triển chung chứ chưa đưa ra được một danh mục tín dụng kế họach trong đó tỷ trọng dư nợ từng ngành, từng khu vực, từng đối tượng được xây dựng cụ thể nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tập trung. Bên cạnh đó các mục tiêu đặt ra cũng chỉ ở mức đơn giản, thông qua các con số về tốc độ tăng trưởng tín dụng cho toàn ngân hàng, tỷ trọng nợ xấu/ nợ quá hạn cần khống chế, hoặc được xử lý. Mức độ tổn thất tín dụng thể hiện “khẩu vị rủi ro” của ngân hàng không được cụ thể hóa cho từng ngành, từng khu vực thị trường, từng lọai sản phẩm tín dụng. Cũng vì chưa xây dựng được một kế hoạch danh mục cụ thể, nên trong quá trình thực hiện cấp tín dụng, dưới áp lực cạnh tranh khốc liệt, các ngân hàng có xu hướng chạy theo phong trào khi tập trung tín dụng với một khối lượng lớn vào các ngành kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán trong những năm 2009-2013. Danh mục cho vay của nhiều ngân hàng có tỷ lệ tập trung rủi ro theo ngành rất lớn và hậu quả phải gánh chịu là nợ xấu khổng lồ từ năm 2009 trở lại đây vẫn chưa xử lý dứt điểm được
Đánh giá chung, có thể nói việc chưa định hình được một chiến lược phát triển rõ ràng, chưa xây dựng được một danh mục tín dụng với tỷ trọng dư nợ theo các loại hình tín dụng cụ thể, chưa lượng hóa được mức độ tổn thất mục tiêu (mức tổn thất dự kiến dựa vào khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng) trên danh mục tín dụng là điểm hạn chế nổi bật trong thực tế quản trị tín dụng của các ngân hàng Việt Nam so với ngân hàng thương mại tại các nước phát triển. Nguyên nhân cũng có thể xuất phát từ những khó khăn trong công tác dự báo kinh tế tại môi trường nhiều biến động như Việt Nam, cộng thêm việc thiếu một công cụ đo lường rủi ro ở góc độ toàn danh mục, vì vậy việc xây dựng chiến lược tại các ngân hàng còn hết sức hạn chế, dẫn đến môi trường quản trị rủi ro tín dụng nói chung chưa đáp ứng được các yêu cầu của Ủy ban Basel như đã đề cập trong chương 1.
2.3.2.2. Một số ngân hàng thương mại vẫn duy trì mô hình tổ chức quản trị phân tán, chưa tách bạch các chức năng dễ dẫn đến xung đột quyền lợi trong quản trị rủi ro tín dụng
Như đã mô tả trong mục 2.2, các NHTM Nhà nước quy mô lớn như Vietcombank, BIDV, Vietinbank, Agribank hiện tại vẫn áp dụng mô hình quản trị phân tán. Theo đó các chi nhánh được phép xây dựng cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro tương tự như mô hình của Hội sở chính. Bộ phận quản lý rủi ro tại chi nhánh chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc chi nhánh, bên cạnh việc liên hệ trực tuyến với Khối quản lý rủi ro Hội sở. Mô hình quản lý này làm giảm đi tính độc lập của bộ phận quản lý rủi ro tại chi nhánh. Thậm chí việc trả lương cho bộ phận quản lý rủi ro tại chi nhánh cũng do Ban giám đốc chi nhánh thực hiện, điều này không thể tránh khỏi xung đột quyền lợi trong thực hiện chức trách nhiệm vụ giám sát rủi ro tại chi nhánh.
Ở một số ngân hàng, chức năng của bộ phận quản lý rủi ro cũng chưa được hiểu đúng. Tình trạng bộ phận quản lý rủi ro tham gia vào trong khâu thẩm định/ tái thẩm định tín dụng không phải chỉ có ở những ngân hàng nhỏ, mà ngay tại các ngân hàng thương mại lớn như BIDV hay Vietinbank vẫn tồn tại. Điều đó cho thấy chưa thực sự tách biệt giữa chức năng tạo rủi ro (tác nghiệp) và chức năng quản lý rủi ro, tính độc lập của quản lý rủi ro chưa được đảm bảo, dẫn đến hiệu quả quản trị thấp.
Một hạn chế khác cũng nhận thấy ở các ngân hàng theo mô hình quản trị phân tán đó là việc chưa tách biệt các công việc có thể dẫn đến xung đột quyền lợi giữa bộ phận bán hàng, bộ phận thẩm định và bộ phận theo dõi quản lý nợ. Tại các chi nhánh ngân hàng, cán bộ tín dụng vẫn có thể thực hiện đồng thời cả ba nội dung công việc nêu trên, vì vậy việc lạm dụng, thông đồng với khách hàng để lập chứng từ có mục đích gian dối… vẫn xảy ra, phần nào vô hiệu hóa hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
2.3.2.3. Việc thực hiện quy trình tín dụng còn nhiều sai sót là một trong các nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nợ xấu ở nhiều ngân hàng tăng quá mức cho phép.
Khâu thẩm định khách hàng thường được xem là quan trọng nhất, tuy nhiên để có thể thẩm định có hiệu quả, chất lượng thì việc thu thập thông tin phải có chất lượng. Song khi thực hiện thẩm định hồ sơ khách hàng, các ngân hàng nhiều khi không thấy
được rằng đây chính là điều kiện đánh giá khả năng của khách hàng trong hiện tại và tương lai, mối quan hệ giữa các nội dung thẩm định thực chất là tuân thủ nguyên tắc tín dụng, yêu cầu pháp luật về quan hệ kinh tế đôi khi thẩm định trên ý trí chủ quan, cảm tính trước khi tiến hành thẩm định.
Trong quá trình ký kết hợp đồng, ngân hàng thường dựa trên hợp đồng mẫu song chính điều này có thể có những hạn chế khi không đề cập những đặc thù của từng khoản vay, điều kiện tín dụng...
Quá trình giải ngân thiếu căn cứ xác đáng về đối tượng vay vốn, thời điểm giải
ngân
Công tác kiểm tra, giám sát khách hàng chỉ dừng lại ở việc kiểm tra tính mục đích
của việc sử dụng tiền vay chưa quan tâm đến hiệu quả sử dụng tiền vay.
Hậu quả của việc không tuân thủ quy trình cấp tín dụng là nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng ở nhiều ngân hàng. Trong những năm 2009 - 2013, nhìn chung tỷ lệ nợ quá hạn tại các NHTM tăng cao và có dấu hiệu mất kiểm soát, đặc biệt là chất lượng tài sản đảm bảo giảm sút hoặc bị tình trạng bong bóng, đẩy giá trị cao hơn giá trị thị trường. sự tuân thủ quy trình cấp tín dụng tại một số NHTM có những thời điểm chưa thực sự tuân thủ nghiêm túc một số khoản vay có giá trị lớn được phê duyệt để đầu tư chéo, ngoài ngành theo chỉ đạo của cấp lãnh đạo hoặc của cổ đông.
Trong mười năm qua từ 2003 đến 2013, Chính phủ thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ theo đó hệ thống ngân hàng tăng rất nhanh cả về số lượng và quy mô tài sản. Tuy nhiên, sự tăng trưởng nhanh về số lượng chưa đi kèm với chất lượng, nhiều ngân hàng năng lực tài chính còn yếu kém, công tác quản trị rủi ro lỏng lẻo, thường xuyên rơi vào trạng thái mất thanh khoản, bộc lộ nhiều bất cập và chứa đựng nhiều rủi ro tài chính, gây ảnh hưởng xấu đến toàn hệ thống tài chính. Theo số liệu báo cáo trong bảng 2.5, từ năm 2009 đến năm 2013, nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Trung bình giai đoạn 2009 - 2013, dư nợ bình quân nợ xấu khá cao, khoảng 51%. Trong đó, đặc biệt là năm 2012, với báo cáo của các tổ chức đánh giá quốc tế cho rằng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM tại thời điểm 31-12-2012 ở mức 14%, song theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước trước Quốc hội, nợ xấu tại thời điểm thanh tra của Ngân hàng Nhà nước là 8,82% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế,
khoảng 280.000 tỷ đồng (khoảng 13.2 tỷ USD), tương đương 11% GDP. Ngoài ra, con số nợ xấu này chưa tính đến nợ tồn đọng xây dựng cơ bản (chủ yếu của các địa phương), hiện đang dự tính khoảng 90.000 tỷ đồng. Theo các chuyên gia kinh tế, nợ xấu tập trung chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản và chứng khoán; trong đó nợ xấu tại khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn. Những số liệu của một số nhà nghiên cứu cho thấy, khu vực doanh nghiệp nhà nước hiện đóng góp vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Xu hướng gia tăng nợ của các doanh nghiệp sẽ góp phần làm cho tình hình nợ xấu của các tổ chức tín dụng ngày càng nghiêm trọng hơn. Nợ xấu theo nhóm ngành nghề của các tổ chức tín dụng cũng tăng, trong đó có 6 ngành kinh tế chiếm tỷ lệ nợ xấu cao nhất, là: công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 22,5% tổng nợ xấu toàn hệ thống; hoạt động kinh doanh bất động sản và dịch vụ là 7,83% và 19,25%; buôn bán, sửa chữa, ô tô, xe máy 18,52%; vận tải, kho bãi chiếm 11% và xây dựng là 9,5%. Việc gia tăng nợ xấu nhóm thương mại và dịch vụ, trong đó có ngành vận tải biển, cho thấy khó khăn của thị trường tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ trong nước và quốc tế đã tác động mạnh đến ngành này.
Đồng thời, theo báo cáo tài chính năm 2013 của 15 NHTM đã niêm yết thì tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SHB) đang dẫn đầu với 9%, tiếp đến là Ngân hàng Thương mại cổ phần Nam Việt (Navibank) với 6,1% và Ngân hàng Thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam (Techcombank) là 5,28%. Các ngân hàng còn lại đều có nợ xấu dưới 3% như Ngân hàng Thương mại CP Á Châu (ACB) là 2,99%; Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) là 2,55%: Ngân hàng Thương mại cổ phần công thương Việt Nam (Vietinbank) 2,1%; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) 2,81%; Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) 1,49%, Ngân hàng Quân đội (MB) 2,44%. Như vậy, theo báo cáo của các ngân hàng trên, nợ xấu thể hiện đã giảm khi hầu hết ngân hàng đều có tỷ lệ nợ xấu dưới mức 3%, mức được xem là an toàn, có thể chấp nhận được trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, theo tính toán, các ngân hàng này chiếm khoảng 75% tổng dư nợ của toàn hệ thống và còn nhiều ngân hàng vẫn chưa công bố rõ tình hình nợ xấu của mình.
Điều này cho thấy, các khoản nợ xấu vẫn đáng lo ngại, đặc biệt là sự gia tăng liên tục của nợ nhóm 5.
Ngoài ra, nợ xấu của các tổ chức tín dụng làm tắc dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đối với các tổ chức tín dụng mà còn đối với khu vực doanh nghiệp, làm tăng chi phí và ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả hoạt động kinh doanh, tài chính của nền kinh tế.
2.3.2.4. Các ngân hàng chưa có một hệ thống đo lường rủi ro tín dụng phù hợp với thông lệ quốc tế
Như đã đề cập trong phần cơ sở lý luận, rủi ro tín dụng gồm hai thành phần là rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục. Mỗi thành phần rủi ro có một cách thức đo lường riêng biệt. Ủy ban Basel trong Hiệp ước Basel 2 đã khuyến khích các ngân hàng dùng mô hình nội bộ để đo lường rủi ro riêng biệt của ngân hàng mình. Như đã giới thiệu trong chương 1, nhiều ngân hàng tại các nước phát triển đã sử dụng các mô hình khác nhau để đo lường rủi ro từ đó tiến hành trích dự phòng hoặc là tính mức vốn tương xứng để trang trải cho tổn thất. Tuy nhiên các mô hình này chưa được áp dụng tại Việt Nam.
Thời gian qua, theo hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, phương pháp đo lường tổn thất được áp dụng chung cho tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam, trên cơ sở đó trích lập dự phòng cho cả hai loại rủi ro ước tính được và không ước tính được của từng giao dịch cá biệt cũng như toàn danh mục tín dụng. Phương pháp đo lường thống nhất đang áp dụng có ưu điểm là dễ tính toán, không quá phức tạp, tuy nhiên nhược điểm của nó là chưa sát đúng với mức độ rủi ro thực sự mà từng ngân hàng phải đối mặt. Tham khảo từ một đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành trong năm 2013 của tác giả Bùi Diệu Anh cùng nhóm nghiên cứu [Bùi Diệu Anh (2013),Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực quản trị danh mục cho vay của một số ngân hàng TMCP trên địa bàn thành phố HCM, đề tài NCKH cấp ngành] thì những nhược điểm của phương pháp đo lường rủi ro tín dụng tại Việt Nam đã được chỉ ra là:
(i) Chưa tách biệt được bản chất của tổn thất ước tính được và tổn thất không ước
tính được để xác định nguồn bù đắp tương thích, hiện tại cả hai lọai tổn thất này đều được tính vào trong chi phí của các ngân hàng Việt Nam, trong khi theo quan điểm hiện đại thì chỉ có tổn thất ước tính được là tính vào chi phí, còn tổn thất không dự tính được thì được trang trải bằng vốn tự có của ngân hàng;
(ii) Cách tính toán trích lập dự phòng rủi ro chưa hợp lý, cụ thể chưa đưa yếu tố xác suất vỡ nợ của từng người vay vào công thức tính;
(iii) Chưa tính đến tương quan giữa các khoản vay trên phạm vi toàn danh mục, mà sử dụng phương pháp cộng gộp từ nhiều tổn thất cá biệt thành tổn thất của toàn danh mục.
2.3.2.5. Hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ tại ngân hàng chưa hỗ trợ hiệu quả
cho công tác quản lý rủi ro tín dụng
Điều 40 và điều 41 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã quy định rất rõ về nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội bộ và của kiểm toán nội bộ trong mỗi ngân hàng . Tuy nhiên trong thực tế, việc phân định rõ chức năng nhiệm vụ của hai hệ thống này vẫn còn bị hạn chế tại nhiều ngân hàng. Có những ngân hàng TMCP chưa đưa ra được quy trình kiểm toán nội bộ thống nhất áp dụng cho toàn hệ thống; Bộ phận kiểm toán nội bộ không trực thuộc và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban kiểm soát, mà vẫn dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành (trường hợp của ngân hàng TMCP An Bình chẳng hạn), cụ thể lương thưởng, phụ cấp trách nhiệm của bộ phận kiểm toán nội bộ do Ban điều hành chi trả, vì vậy tính độc lập của kiểm toán nội bộ rất yếu, không thể thực hiện vai trò đánh giá độc lập khách quan đối với hệ thống kiểm soát nội bộ theo quy định trong Luật Các tổ chức tin dụng. Như vậy, bộ phận kiểm toán nội bộ đã không làm tốt vai trò của tuyến phòng thủ thứ ba theo quan điểm quản trị rủi ro hiện đại. Đây cũng là một trong những tiêu chí phản ánh sự yếu kém của công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua.