Tuy nhiên đây chưa phải là kết luận cuối cùng về chất lượng của khoản tín dụng đang xem xét. Muốn xác định chất lượng của khoản tín dụng để làm căn cứ đề xuất ý kiến lên Ban tín dụng/ Hội đồng tín dụng, cán bộ tín dụng còn phải tiến hành đanh giá tài sản bảo đảm, sau đó kết hợp giữa kết quả xếp hạng rủi ro với kết quả đánh giá tài sản bảo đảm để rút ra kết luận cuối cùng về chất lượng khoản vay.
+ Về kiểm soát rủi ro tín dụng:
Các ngân hàng TMCP nhóm 3 đã xây dựng được mô hình tách biệt phát triển kinh doanh, thẩm định khách hàng và công tác thu hồi nợ. Theo đó, tại các kênh phân phối Bộ phận kinh doanh tập trung phát triển khách hàng, công tác thẩm định để xét duyệt cho vay và quản trị rủi ro tín dụng do Bộ phận quản lý rủi ro thực hiện và cuối cùng việc theo dõi, thu hồi nợ do bộ phận kế toán thực hiện. Mặc dù, có sự chia tách trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng nhưng tại các ngân hàng này chưa xây dựng được mô hình ba tuyến phòng thủ rõ ràng, tách bạch như các ngân hàng TMCP nhóm 2. Quy trình tín dụng được thiết lập trong đó Khối Kinh doanh chịu trách nhiệm tìm kiếm và chăm sóc khách hàng. Khối Quản trị rủi ro thẩm định và trình cấp cao thẩm định và xét duyệt. Khối Hỗ trợ thực hiện các thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng sau khi phê duyệt. Như vậy, bản chất, công tác thẩm định vẫn đang nằm trong Khối quản trị rủi ro, chưa có sự phân tách độc lập và rõ ràng giữa nhà phê duyệt tín dụng và nhà quản trị rủi ro. Điều này có thể dẫn đến việc phê duyệt tín dụng thiếu tính khách quan và giảm tính hiệu quả của công tác hạn chế rủi ro tín dụng
2.2.3.4. Điều chỉnh sau giám sát
Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng tại các ngân hàng TMCP nhóm 3 dựa trên Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 được, và theo thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21 tháng 01 năm 2013, và thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18 tháng 3 năm 2014, Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Việc điều chỉnh sau giám sát của các ngân hàng TMCP nhóm 3 chưa có sự linh động nhằm ứng phó với các khách hàng, nhóm khách hàng có dư nợ xấu do áp lực cạnh tranh phát triển khách hàng
2.2.4. Đánh giá công tác quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại
Từ các phương thức tổ chức quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM nêu trên cho
thấy:
Có thể bạn quan tâm!
- Thị Phần Huy Động Vốn Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Tính
- Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng
- Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Thuộc Nhóm 3
- Hầu Hết Các Ngân Hàng Đã Xây Dựng Được Quy Trình Cấp Tín Dụng Chặt Chẽ,
- Nguyên Nhân Dẫn Đến Hạn Chế Trong Công Tác Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại .
- Định Hướng Hoàn Thiện Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Việt Nam Trong Thời Gian Tới
Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.
Thứ nhất, đây là hệ thống các mô hình quản trị bao gồm mô hình tổ chức quản
trị rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng phản ánh một cách hệ thống các vấn đề về cơ chế cho vay, chính sách tín dụng, quy trình nghiệp vụ nhằm thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát rủi ro trong một quy trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng; các công cụ đo lường, phát hiện rủi ro; các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro tín dụng ngay từ khi có dấu hiệu phát sinh và các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó khi có rủi ro xảy ra nhằm hạn chế mức độ tổn thất thấp nhất.
Thứ hai, các NHTM tổ chức phương thức quản trị rủi ro tín dụng theo hai mô hình phổ biến, đó là mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung và mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán. Các NHTM nhà nước gồm Vietcombank, BIDV, Vietinbank, Agribank thường áp dụng mô hình quản trị phân tán, theo đó các chi nhánh được phép xây dựng cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro theo mô hình của hội sở chính. Hội sở chính thực hiện chức năng xây dựng cơ chế, chính sách và giám sát từ xa. Các NHTM cổ phần tổ chức phương thức quản trị rủi ro tín dụng theo mô hình tập trung, theo đó hội sở chính vừa xây dựng cơ chế, chính sách vừa trực tiếp giám sát, quản trị các rủi ro tín dụng và các rủi ro khác liên quan. Trong quá trình vận hành, mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung và mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán có các điểm mạnh và điểm yếu như đánh giá sau đây
Mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung
Mô hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa 3 chức năng: quản trị rủi ro tín dụng, hoạt động kinh doanh và thẩm định cho vay. Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy được tối đa kỹ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng.
Điểm mạnh:
+ Quản lý rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo tính
cạnh tranh lâu dài.
+ Thiết lập và duy trì môi trường quản lý rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh nâng cao năng lực đo lường giám sát rủi ro.
+ Xây dựng chính sách quản lý rủi ro thống nhất cho toàn hệ thống.
+ Thích hợp với ngân hàng quy mô lớn.
Điểm yếu:
+ Việc xây dựng và triển khai mô hình quản lý tập trung này đòi hỏi phải đầu tư
nhiều công sức và thời gian.
+ Đội ngũ cán bộ phải có kiến thức cần thiết và biết áp dụng lý thuyết với thực
tiễn.
Cơ hội:
+ Xây dựng được các chuẩn mực quản trị rủi ro ngày càng gần với thông lệ quốc
tế
+ Dễ dàng trong việc thực thi kiểm tra giám sát nhất là khâu giám sát chéo giữa
các bộ phận khác nhau trong cùng một hệ thống
Thách thức
+ Chi phí xây dụng, vận hành cao
+ Dễ dẫn đến những phiền hà cho khách hàng trong quá trình giao dịch vì khách hàng phải trải qua nhiều công đoạn, nhiều cán bộ ở các khâu khác nhau cùng tiếp xúc khách hàng
Mô hình quản lý rủi ro tín dụng phân tán
Mô hình này chưa có sự tách bạch giữa chức năng quản lý rủi ro tín dụng, hoạt động kinh doanh và thẩm định cho vay. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng gồm phát triển khách hàng, thẩm định cho vay, quản trị các thay đổi có rủi ro liên quan đến khách hàng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay.
Điểm mạnh:
+ Cán bộ tín dụng có nhiều thông tin liên quan đến khách hàng
+ Cơ cấu tổ chức đơn giản, chi phí xây dựng, vận hành thấp
+ Thích hợp với ngân hàng quy mô nhỏ.
Điểm yếu:
+ Nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu.
+ Việc quản lý hoạt động tín dụng đều theo phương thức từ xa dựa trên số liệu
chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lý gián tiếp thông qua chính sách tín dụng.
+ Dễ phát sinh các yếu tố rủi ro chủ quan xuất phát từ cán bộ cho vay
Cơ hội:
Đáp ứng nhanh các yêu cầu của khách hàng trong quá trình cấp tín dụng
Thách thức
+ Khó khăn trong quá trình kiểm tra giám sát chéo các thông tin của khách hàng và các thông tin nội bộ
+ Khách hàng và cán bộ tín dụng dễ thông đồng nhằm cung cấp sai thông tin khi
xét cấp tín dụng
Thứ ba, xuất phát từ các điều kiện chung về pháp lý, thị trường, công nghệ, con người và những đòi hỏi thực tiễn của hoạt động quản trị rủi ro tín dụng, đồng thời để các NHTM ngày càng hoàn thiện qui trình nội bộ để tiến đến áp dụng các thông lệ quốc tế đặc biệt là các chuẩn mực theo nội dung Basel thì các NHTM nên áp dụng mô hình quản trị tập trung. Theo đó, tại Hội sở chính cần xây dựng tách bạch giữa chức năng, thẩm quyền của khâu ra quyết định cấp tín dụng với chức năng khâu quản lý tín dụng trên cơ sở phân định trách nhiệm và chức năng rõ ràng giữa các bộ phận kinh doanh, thẩm định, phê duyệt tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro hoạt động. Tại chi nhánh: Tiến hành tách các bộ phận kinh doanh, bán hàng, tiếp xúc khách hàng, tiếp thị…, với chức năng phân tích tín dụng (phân tích, thẩm định, dự báo, đánh giá khách hàng…) và chức năng tác nghiệp sau khi cấp tín dụng như xử lý hồ sơ, theo dõi, giám sát khoản vay, thu nợ, thu lãi,v.v., với mô hình này, bộ phận kinh doanh chịu trách nhiệm tìm kiếm, phát triển và chăm sóc khách hàng. Bộ phận này sẽ tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ vay vốn, sau đó chuyển
toàn bộ hồ sơ và các thông tin liên quan đến khách hàng cho bộ phận phân tích tín dụng. Bộ phận phân tích tín dụng, kiểm tra và thu thập các thông tin liên quan đến khách hàng vay. Trên cơ sở thông tin đó, bộ phận phân tích tín dụng thực hiện phân tích, đánh giá toàn bộ các nội dung từ các nội dung về pháp lý khách hàng, tình hình tài chính, phương án, dự án vay vốn đến các nội dung về đảm bảo tiền vay. Bộ phận phân tích tín dụng là người trực tiếp trình cấp phê duyệt tín dụng để ra quyết định cấp hoặc không cấp tín dụng. Kết quả phê duyệt tín dụng sau đó sẽ được chuyển cho bộ phận phân tích tín dụng để lưu trữ thông tin đồng thời được chuyển cho bộ phận liên quan để thực hiện các khâu tiếp theo trong quy trình cấp tín dụng.
Thứ tư, các NHTM Việt Nam tổ chức áp dụng các phương thức, mô hình quản trị rủi ro tín dụng khác nhau nhưng xét về phương diện tác nghiệp thì quy trình được xây dựng đầy đủ các công cụ quản trị rủi ro tín dụng đối với hoạt động trước và sau khi cho vay như:
+ Quy trình tín dụng
+ Quy định về xây dựng bộ máy và phân quyền phê duyệt tín dụng
+ Hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng nội bộ
+ Quy chế đảm bảo tiền vay
+ Chính sách phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng
+ Công tác quản lý và xử lý có vấn đề
2.3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Từ thực trạng quản trị rủi ro tín dụng của nhóm các ngân hàng thương mại đã được mô tả trong mục 2.2, tác giả sẽ đánh giá khái quát những kết quả đạt được, những mặt hạn chế, đồng thời đi sâu vào phân tích các nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đọan 2009 – 2013.
2.3.1 Những kết quả đạt được trong quản trị rủi ro tín dụng
Công tác quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại đã đạt được một
số kết quả sau đây:
2.3.1.1. Hầu hết các ngân hàng đã xây dựng chiến lược, chính sách định hướng cho
công tác quản trị rủi ro tín dụng thống nhất trong từng hệ thống ngân hàng
Phần lớn các ngân hàng đã xây dựng được các định hướng chiến lược trong cấp tín dụng. Điển hình các ngân hàng lớn như BIDV, Vietcombank, Vietinbank, ACB… hàng năm đều có chính sách ưu tiên, chú trọng phát triển tín dụng cho một số ngành hàng phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ và thị trường mục tiêu của ngân hàng. Điều này hết sức quan trọng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng từng giai đọan/ thời kỳ nhất định.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng đã xây dựng được các chính sách quan trọng liên quan đến quản trị rủi ro tín dụng. Trong các chính sách mà các ngân hàng áp dụng có thể chia thành hai nhóm như sau:
(i) Nhóm các chính sách được ngân hàng cụ thể hóa từ các quy định trong Luật Các Tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật. Trong nhóm này, chính sách mà ngân hàng cụ thể hóa từ các quy định pháp luật gồm có chính sách về giới hạn cấp tín dụng, chính sách trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Cơ sở để các ngân hàng xây dựng là dựa vào các văn bản như: Luật các tổ chức tín dụng, Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 về phân lọai nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoại động ngân hàng, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 (hiệu lực từ 1/10/2010) thay thế quyết định 457/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/9/2010 (hiệu lực từ 1/10/2010) sửa đổi thông tư 13/2010/TT-NHNN nêu trên, Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 1/3/2011 của ngân hàng Nhà nước về khống chế dư nợ vay phi sản xuất trong năm 2011, Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21 tháng 01 năm 2013 và Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18 tháng 3 năm 2014… Trên tinh thần của các văn bản này, các ngân hàng đưa ra các giới hạn cấp tín dụng cho một khách hàng/một nhóm khách hàng, quy định về không cấp tín dụng/hạn chế cấp tín dụng cho một số đối tượng đặc biệt như thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát…nhằm tránh tập trung vốn quá nhiều cho một chủ thể, đối tượng, dẫn đến tập trung rủi ro. Đồng thời thực hiện trích lập dự phòng cho các lọai tổn thất tong hoạt động tín dụng.
(ii) Nhóm các chính sách do chính các ngân hàng tự xây dựng phù hợp với điều
kiện riêng của từng ngân hàng. Trong nhóm này, các ngân hàng thường xây dựng các quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn và mang tính chất nội bộ như: Chính sách tín dụng, Sổ tay tín dụng, Cẩm nang tín dụng…bao gồm các nội dung định hướng cho quản lý rủi ro tín dụng như quy định về điều kiện khách hàng vay vốn, quy trình cấp tín dụng với các nội dung kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay, quy trình xử lý nợ xấu, nợ có vấn đề…
2.3.1.2. Mô hình tổ chức theo hướng tập trung cho quản trị rủi ro bước đầu đã được
hình thành tại một số ngân hàng thương mại.
Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua vào ngày 16/6/2010, ban hành vào ngày 29/6/2010 và có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2011, đã đưa ra nhiều quy định mới về tổ chức quản trị điều hành trong ngân hàng. Theo tinh thần của Luật này, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đã xây dựng được mô hình tổ chức hướng theo thông lệ quốc tế, chú trọng quản trị rủi ro nói chung, trong đó có quản trị rủi ro tín dụng. Cụ thể ở tất cả các ngân hàng đều hình thành Ủy ban quản lý rủi ro, với vai trò tư vấn cho Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên trong vấn đề liên quan đến quản trị rủi ro (theo điểm 6, điều 43 Luật Các tổ chức tin dụng). Đây là một nội dung có ý nghĩa hết sức mới trong hoạt động của các ngân hàng Việt Nam, tạo tiền đề để từng bước hướng theo chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro.
Cùng với việc hình thành Ủy ban quản lý rủi ro, qua thực tế tìm hiểu, nhận thấy thời gian qua, các NHTM Việt Nam (đa phần là các ngân hàng NHTMCP như ACB, Sacombank, Techcombank, VPbank…) đã thực hiện mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung. Đây là mô hình quản trị tiên tiến đang được ngân hàng tại các nước phát triển áp dụng. Theo mô hình này, Khối quản trị rủi ro của ngân hàng tập trung tại Hội sở chính, có nhiệm vụ vừa xây dựng cơ chế, chính sách vừa trực tiếp giám sát, quản trị các rủi ro tín dụng và các rủi ro khác liên quan. Tại các chi nhánh hình thành Bộ phận quản lý rủi ro là “chân rết” của Khối quản trị rủi ro theo hàng dọc. Điểm thuận lợi của mô hình tập trung là tạo điều kiện để hình thành hệ thống quản lý rủi ro đồng bộ, thống nhất trên quy mô của toàn ngân hàng. Mặt khác đảm bảo tính độc lập và tập trung của Khối/ bộ phận quản trị rủi ro theo xu hướng hiện đại. Tính đến cuối năm 2012, có 14
ngân hàng TMCP trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đều đã hình thành bộ phận quản lý rủi ro, với tên gọi khác nhau, chẳng hạn Khối quản trị rủi ro (tại ACB thành lập năm 2012, ANBINHBANK); khối giám sát hoạt động (tại EXIMBANK) hoặc khối giám sát và quản lý rủi ro (tại VIETABANK)...[ Bùi Diệu Anh (2013), thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực quản trị danh mục cho vay của một số ngân hàng TMCP trên địa bàn thành phố HCM, đề tài NCKH cấp ngành]
Hình 2.17 Hệ thống 3 tuyến phòng thủ trong quản trị rủi ro theo mô hình
tập trung
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN ĐIỀU HÀNH
KHỐI TÁC NGHIỆP
TUYẾN PHÒNG VỆ THỨ BA
---------
BAN KIỂM SOÁT
BỘ PHẬN KIỂM TOÁN NỘI BỘ
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
TUYẾN PHÒNG VỆ
THỨ HAI
---------
KHỐI QUẢN TRỊ RỦI RO
TUYẾN PHÒNG VỆ THỨ NHẤT
--------- BỘ PHẬN
TÁC NGHIỆP
Nguồn: tham khảo từ Bùi Diệu Anh luận án tiến sĩ kinh tế [3]
Trong mô hình trên, có sự tách biệt giữa vai trò của từng tuyến phòng thủ:
Tuyến phòng thủ thứ nhất là Bộ phận tác nghiệp, thực hiện các công việc trong quy trình cấp tín dụng, còn gọi là nơi “kiến tạo rủi ro”. Hiện nay để tránh xung đột quyền lợi, tại các ngân hàng theo mô hình quản trị tập trung đã có sự tách bạch giữa công việc của ba bộ phận: (i) Bộ phận giao dịch khách hàng (là bộ phận tiếp xúc khách hàng, giới thiệu và phân phối sản phẩm); (ii) Bộ phận thẩm định tín dụng (chịu trách nhiệm phân tích khách hàng để làm cơ sở ra quyết định chấp thuận hoặc từ chối cấp tín dụng); (iii) Bộ phận quản lý nợ thực hiện các công việc theo dõi giám sát sau giải ngân. Sự phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa ba bộ phận này tạo điều kiện làm tốt vai trò của tuyến phòng thủ thứ nhất trong mô hình quản trị rủi ro theo xu hướng hiện đại.