Xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động trên toàn thế giới, vì thế sự biến động tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở nước ngoài cũng ảnh hưởng tới đời sống kinh tế, chính trị xã hội trong nước, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng. Các doanh nghiệp cũng như ngân hàng đều phải nắm bắt xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và khu vực, những ảnh hưởng của nó đến HĐKD của đất nước cũng như đối với cá nhân mỗi khách hàng để có những bước đi, kế hoạch đổi mới phát triển cho phù hợp.
Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn
- Năng lực quản trị, điều hành của khách hàng
Năng lực quản trị, điều hành của Ban lãnh đạo có tính chất quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn vay, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực hiện cam kết với ngân hàng. Do đó, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác QTRRTD. Nhiều khách hàng vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng, như cung cấp thông tin sai sự thật, mua chuộc… Nhiều khách hàng vay vốn không tính toán kỹ, mở rộng đầu tư quá mức, hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh. Trường hợp còn lại là khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi nhưng vẫn không trả nợ đúng hạn, họ chây ỳ với hy vọng có thể được xóa nợ, sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch
Năng lực tài chính là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động TDNH bởi nếu khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh, HĐKD ổn định, có uy tín thì khi có biến cố xảy ra, khách hàng có khả năng chống đỡ rủi ro bằng vốn chủ sở hữu và hạn chế ảnh hưởng đến quá trình thực hiện nghĩa vụ với NHTM.
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống RRTD.
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát
Có thể bạn quan tâm!
- Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 1
- Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 2
- Bảng Phân Tích Các Dạng Mô Hình Qtrr Tín Dụng Dưới Góc Độ Nghiên Cứu Tổng Thể
- Kinh Nghiệm Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Một Số Ngân Hàng Thương Mại Trên Thế Giới Và Bài Học Đối Với Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương
- Bài Học Kinh Nghiệm Cho Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam Trong Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
Các nguyên nhân chủ quan bao gồm:
Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng không minh bạch làm cho hoạt động tín dụng lệch lạc, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo ra khe hở cho người sử dụng vốn có những hành vi vi phạm hợp đồng và pháp luật của Nhà nước.
Trình độ yếu kém và vi phạm đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng
Rủi ro do cán bộ tín dụng tính toán không đúng hiệu quả đầu tư dự án xin vay. Cán bộ tín dụng không nắm rõ đặc điểm của ngành mà mình đang cho vay, hoặc do chính cán bộ tín dụng cố ý cho vay, dù đã tính toán được dự án xin vay không có hiệu quả, tính khả thi thấp, điều này sẽ gây ra rủi ro lớn cho ngân hàng. Rủi ro do ngân hàng đánh giá chưa đúng mức về khoản vay, về người vay, chủ quan tin tưởng vào khách hàng thân thiết, coi nhẹ khâu kiểm tra tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và trong tương lai, nguồn trả nợ.
Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ ngân hàng đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao với thực tế để vay tiền ngân hàng với giá trị lớn.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế RRTD. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Thiếu giám sát và quản trị rủi ro sau khi cho vay
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản trị một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này.
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng
Kiểm tra nội bộ có điểm ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức.
Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của có quan quản lý chưa thực sự hiệu quả
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro do nhu cầu quản trị rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu so sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Mô hình tín dụng thiết kế lỏng lẻo
Về mô hình quản lý, quản trị rủi ro tín dụng còn lỏng lẻo, tạo kẽ hỡ cho rủi ro tín dụng xuất hiện
Tập trung hóa danh mục tín dụng
Việc tập trung danh mục tín dụng vào một nhóm khách hàng, nhóm ngành nghề hoặc vùng, lĩnh vực có thể dẫn đến rủi ro tín dụng
Không thực hiện việc đánh giá hoạt động tín dụng thường xuyên.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng đó là do các ngân hàng thương mại còn lơ là trong việc đánh giá hoạt động tín dụng không thường xuyên, chưa có biện pháp kịp thời để xử lý các tình huống phát sinh
1.1.2.4 Tiêu chí đo lường rủi ro tín dụng
Để nhận biết RRTD, có thể căn cứ vào các chỉ tiêu trực tiếp như: nợ quá hạn, nợ xấu, dự phòng RRTD. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu gián tiếp cũng rất quan trọng cho biết dấu hiện nhận biết rủi ro đối với ngân hàng như: Quy mô tín dụng, mức độ tăng trưởng quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, và các chỉ tiêu
Các tiêu chí trực tiếp đánh giá RRTD:
Đây là các chỉ tiêu đặc biệt quan trọng, nó phản ánh RRTD của ngân hàng,
cụ thể:
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là chỉ tiêu cơ bản phản ánh RRTD. Nợ quá hạn sẽ phát sinh khi
đến thời hạn trả nợ theo cam kết, người vay không có khả năng trả được nợ một phần hay toàn bộ khoản vay cho người cho vay. Tùy theo thời gian quá hạn, khoản nợ này sẽ được xác định là nợ đủ tiêu chuẩn, nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, hoặc là nợ có khả năng mất vốn...Nợ quá hạn được phản ánh qua 2 chỉ tiêu sau:
Tỉ lệ nợ quá hạn =
Số dư nợ quá hạn Tổng dư nợ
x 100%
Tỉ lệ khách hàng có nợ quá hạn = Số khách hàng có nợ quá hạn x 100%
trên tổng khách hàng có dư nợ Tổng số khách hàng có dư nợ
Nếu ngân hàng có chỉ tiêu nợ quá hạn và số khách hàng có nợ quá hạn lớn thì ngân hàng đó đang có mức rủi ro cao và ngược lại.
Nợ xấu Nợ xấu chính là các khoản tiền cho khách hàng vay, mà khó hoặc không thể thu hồi được do doanh nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản, nợ phải trả tăng, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán... Nợ xấu sẽ phản ánh một cách rõ nét chất lượng tín dụng của ngân hàng thông qua việc đánh giá cả thời hạn quá hạn của khoản vay và tiêu chí đánh giá rủi ro của khoản vay. Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 [24]. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
Nợ xấu được phản ánh rõ nhất qua các chỉ số:
Tỉ lệ nợ xấu = Nợ xấu x 100% Tổng dư nợ
Tỉ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu =
Nợ xấu Vốn chủ sở hữu
x 100%
Tỉ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất = Nợ xấu x 100%
Quỹ dự phòng tổn thất
Dự phòng RRTD
Dự phòng rủi ro đánh giá khả năng chi trả của ngân hàng khi rủi ro xảy ra. Mục đích của việc sử dụng dự phòng rủi ro của một ngân hàng là nhằm để bù đắp tổn thất đối với những khoản nợ của ngân hàng xảy ra trong trường hợp khách hàng không có khả năng chi trả do giải thể, phá sản, chết, mất tích, hoặc khi khoản nợ được xếp vào nhóm 5. Dự phòng tín dụng được tính trên số dư nợ gốc của khách hàng bao gồm: (i) dự phòng cụ thể - để bảo hiểm rủi ro cụ thể cho từng khoản vay, và (ii) dự phòng chung - bảo hiểm các rủi ro chung không xác định trong danh mục tín dụng và toàn bộ dự phòng được tính vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Việc sử dụng dự phòng được sử dụng theo nguyên tắc là sử dụng dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ trước, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, và cuối cùng nếu phát mãi tài sản không đủ thu hồi nợ thì mới sử dụng dự phòng chung. Mỗi ngân hàng cần có cách tính dự phòng phù hợp vừa đủ để bù đắp rủi ro vừa tránh để chi phí tăng cao ảnh hưởng đến thu nhập ròng. Các chỉ số thể hiện dự phòng RRTD:
Tỉ lệ dự phòng RRTD = Dự phòng RRTD được trích lập x 100%
Tổng dư nợ cho kỳ báo cáo
Hệ số khả năng bù đắp các khoản cho vay bị mất
Dự phòng RRTD được trích lập
=
Dư nợ bị xóa
Dự phòng RRTD được trích lập
Hệ số bù đắp RRTD =
Nợ quá hạn khó đòi
Các tiêu chí gián tiếp đánh giá RRTD:
Các tiêu chí gián tiếp mặc dù không phản ảnh cụ thể RRTD của ngân hàng, tuy nhiên các tiêu chí này có sự thay đổi lớn của kỳ này so với kỳ trước hay so với trung bình của hệ thống ngân hàng thì các tiêu chí này là dấu hiệu phản ánh RRTD của ngân hàng, trên cơ sở đó, ngân hàng có thể xem xét thêm các tiêu chí khác để đánh giá toàn diện về RRTD của ngân hàng.
Quy mô tín dụng
Quy mô tín dụng không phải là tiêu chí phản ánh trực tiếp RRTD nhưng nếu quy mô tín dụng tăng quá nóng, không tương ứng với khả năng kiểm soát của ngân hàng thì lúc đó, quy mô tín dụng sẽ phản ánh RRTD. Quy mô tín dụng thể hiện rõ qua các tiêu chí:
Dư nợ trên tổng tài sản = Tổng dư nợ/Tổng tài sản
Dự nợ bình quân trên số lượng cán bộ tín dụng = Tổng dư nơ/Tổng số cán bộ tín dụng bình quân
Số lượng khách hàng trên số lượng cán bộ tín dụng = Tổng số khách hàng/Tổng số cán bộ tín dụng bình quân
Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng so với tốc độ tăng trưởng kinh tế = Tốc độ tăng trưởng tín dụng/Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Nếu NHTM mở rộng quy mô tín dụng theo hướng nới lỏng tín dụng cho các khách hàng sẽ dẫn đến rủi ro là khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, không kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay… điều này gây rủi ro cho NHTM
Cơ cấu tín dụng
Cơ cấu tín dụng phản ảnh mức độ tập trung tín dụng trong một ngành nghề, lĩnh vực, loại tiền... do đó, tuy không phản ánh trực tiếp mức độ rủi ro, nhưng nếu cơ cấu tín dụng quá thiên lệch vào những lĩnh vực mạo hiểm, sẽ phản ánh RRTD tiềm năng. Cơ cấu tín dụng chia theo các nhóm sau:
- Cơ cấu tín dụng theo ngành: Nếu tập trung cho vay vào những ngành có độ rủi ro cao thì rủi ro không trả được nợ ngân hàng cũng cao. Hoặc cơ cấu tín dụng tập trung quá nhiều vào một ngành, lĩnh vực thì có thể mức độ rủi ro cao khi ngành đó bị suy thoái hay bị các ảnh hưởng khác.
- Cơ cấu tín dụng theo loại hình: cho thấy tỉ lệ tập trung theo các đối tượng là DNNN, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cố vốn đầu tư nước ngoài.
- Cơ cấu tín dụng theo thời hạn cho vay: Yếu tố này phải dựa trên cơ cấu vốn của ngân hàng. Nếu ngân hàng có cơ cấu vốn ổn định dài hạn thì có thể cho vay trung dài hạn nhiều, và ngược lại.
- Cơ cấu tín dụng theo loại tiền tệ: RRTD xảy ra khi có sự biến động mạnh hay bất lợi về tỷ giá; khả năng không đáp ứng của nguồn vốn huy động theo từng loại tiền tệ đối với dư nợ cho vay.
- Cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo: Nếu tỉ lệ các khoản cho vay có tài sản đảm bảo thấp thì ngân hàng đối mặt với rủi ro khi khách hàng không trả được nợ. Cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo phản ánh qua chỉ tiêu tỉ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ.
Các tiêu chí về lợi nhuận
- Thu nhập thuần từ hoạt động cho vay và đầu tư
Tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần
=
+ Tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần từ cho vay và đầu tư
Tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần từ hoạt động cho vay và đầu tư phản ánh thu nhập thuần năm sau tăng/giảm bao nhiêu phần trăm so với năm trước đó. Tốc độ tăng trưởng thu nhập thuần từ hoạt động cho vay và đầu tư cao chứng tỏ hoạt động kinh doanh loại đó của ngân hàng được mở rộng hoặc loại hoạt động kinh doanh của ngân hàng đạt được hiệu quả hơn và ngược lại.
+ Tỷ trọng thu nhập thuần từ hoạt động cho vay và đầu tư
Tỷ trọng thu nhập thuần
từ HĐ cho vay và đầu tư =
Tỷ trọng này cho biết hoạt động cho vay và đầu tư đóng góp tỷ lệ bao nhiêu vào tổng thu nhập thuần. Tỷ trọng này cho biết hoạt động thế mạnh, đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng để từ đó ngân hàng xác định rõ ràng hơn chiến lược hoạt động, phát huy các lĩnh vực thế mạnh để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.1.2.5 Tác động của rủi ro tín dụng
Ảnh hưởng xấu đến HĐKD ngân hàng
- Tăng chi phí vốn, giảm lợi nhuận ngân hàng. RRTD xảy ra đồng nghĩa với việc nguy cơ không thu hồi đủ vốn gốc và lãi. Điều này sẽ trực tiếp làm giảm thu nhập và lợi nhuận của ngân hàng. Trong trường hợp số tiền tổn thất quá lớn, làm cho ngân hàng thua lỗ, thậm chí phá sản. Bên cạnh đó, khi phát sinh RRTD sẽ làm phát sinh thêm nhiều khoản chi phí như: chi phí quản lý nợ, chi phí dự phòng…các chi phí này một lần nữa sẽ ăn mòn vào lợi nhuận, là nguyên nhân dẫn đến thua lỗ trong HĐKD ngân hàng
- Giảm năng lực thanh toán của ngân hàng. Với đặc thù là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, vốn kinh doanh chủ yếu là vốn huy động. Các nguồn huy động này đều có thời hạn và ngân hàng phải trả lãi cho người gửi tiền. Vì vậy, ngân hàng phải tìm mọi cách để mở rộng cho vay, đầu tư tạo thu nhập bù đắp chi phí lãi huy động và có lợi nhuận. Đồng thời các khoản cho vay, đầu tư phải được thu hồi đúng
hạn để có nguồn hoàn trả cho người gửi tiền. RRTD làm cho ngân hàng không thu đủ gốc và lãi đúng hạn, tác động xấu đến kế hoạch nguồn vốn. Trong trường hợp RRTD tăng nhanh, không có khả năng kiểm soát ngân hàng sẽ thiếu nguồn chi trả cho người gửi tiền, giảm khả năng thanh toán.
- Tăng vốn để đảm bảo đủ bù đắp cho tốn thất tín dụng. Theo khuyến nghị của Ủy ban Basel, để hạn chế rủi ro và tổn thất tín dụng, ngân hàng phải luôn đủ vốn cho RRTD. RRTD gia tăng sẽ gây áp lực ngân hàng phải tăng vốn. Vì vốn tối thiểu được đo lường trên cơ sở tài sản có rủi ro, khi rủi ro tăng ngân hàng phải tăng vốn để đảm bảo hệ số an toàn luôn đạt tỷ lệ qui định.
- Hạn chế tăng trưởng tín dụng: Về nguyên tắc, một khách hàng không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cũ sẽ bị hạn chế các khoản vay mới. Trong nhiều trường hợp, ngân hàng phải xử lý RRTD thông qua xử lý bằng việc phát mại tài sản bảo đảm (TSBĐ), khởi kiện tòa án…những biện pháp xử lý này trong chừng mực nhất định có thể làm tổn hại đến uy tín của ngân hàng cũng như mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn. Những lý do trên cho thấy, RRTD còn là nguyên nhân làm giảm tăng trưởng tín dụng của ngân hàng.
- Giảm uy tín của ngân hàng. RRTD tăng, chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm, giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ sẽ làm ngân hàng mất tín nhiệm trên thị trường. Đặc thù là đơn vị kinh doanh dựa vào chữ tín, mất tín nhiệm sẽ là mối đe dọa phá sản đối với bất kỳ một NHTM nào. Thực tế đã chứng minh rất nhiều NHTM phải đóng cửa, phá sản mà nguyên nhân sâu xa từ việc không kiểm soát được RRTD. Tác động tiêu cực đến nền kinh tế
- Làm đình trệ hoạt động của nền kinh tế: RRTD là nguyên nhân làm nghẽn dòng vốn lưu thông trong nền kinh tế do vốn “bơm” vào nền kinh tế của hệ thống ngân hàng bị giảm. Bên cạnh đó các Doanh nghiệp có nợ xấu rất khó tiếp cận các khoản tín dụng mới. Kết quả là các Doanh nghiệp ngày càng thiếu vốn, khó khăn về tài chính, kinh doanh thua lỗ, thậm chí là phá sản. Những tác động tiêu cực này một lần nữa lại tác động kép đến thu nhập, công ăn việc làm của người lao động. Hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng cũng vì thế ngày càng đình trệ. Tình trạng kéo dài có thể dẫn đến suy thoái, khủng hoảng kinh tế.
- Gây bất ổn cho hệ thống tài chính- ngân hàng: Hệ thống NHTM có mối liên kết chặt chẽ do các hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng thường liên quan đến nhau. Vì vậy, rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng thường có tính chất dây chuyền: Một ngân hàng có khó khăn hoặc phá sản sẽ kéo theo hàng loạt các ngân hàng khác trong hệ thống vào tình trạng tương tự. Khi RRTD tại một hoặc một số NHTM tăng cao làm cho các ngân hàng đó kinh doanh thua lỗ, phá sản sẽ là mối đe dọa đến bất ổn, mạnh hơn có thể là sự sụp đổ của cả hệ thống tài chính- ngân hàng.
- Tác động tiêu cực đến ngân sách nhà nước: RRTD làm cho các Doanh nghiệp (bao gồm NHTM) hoạt động đình trệ, thua lỗ, thu nhập người lao động giảm sút. Khi các doanh nghiệp thua lỗ sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách từ thuế Thu nhập doanh nghiệp. Các NHTM có nợ xấu lớn sẽ tăng trích dự phòng RRTD, làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận, từ đó cũng làm giảm thu ngân sách từ thuế. Lợi nhuận ngân hàng giảm còn tác động giảm thu nhập người lao động, kết quả cũng làm giảm nguồn thu thuế. Trong nhiều trường hợp, các NHTM không tự thân xử lý được nợ xấu, phải dùng ngân sách Nhà nước sẽ làm tăng chi ngân sách Nhà nước. Như vậy, nợ xấu vừa tác động giảm thu, vừa tác động tăng chi Ngân sách Nhà nước.
1.2 QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Trong nhiều tài liệu hiện nay cũng chưa phân định rõ khái niệm về quản lý và quản trị, tuy nhiên theo tác giả, đối với phạm vi hoạt động của một tổ chức kinh tế thì thuật ngữ quản trị được sử dụng phù hợp hơn với hàm ý là một chuỗi những hành động/quyết định/mệnh lệnh của nhà lãnh đạo đến các đơn vị, cá nhân trong tổ chức đó nhằm hướng tổ chức đó thực hiện các mục tiêu, kết quả đặt ra. Còn quản lý cũng với những hàm ý như vậy nhưng được sử dụng trong quản lý Nhà nước. Do vậy trong nội dung luận án này tác giả sử dụng thuật ngữ “QTRRTD” thay cho “quản lý RRTD” như một số tài liệu đã đề cập. Do vậy, tác giả quan niệm:
QTRRTD là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách quản trị và kinh doanh tín dụng nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi mức rủi ro có thể chấp nhận.
Kiểm soát RRTD ở mức có thể chấp nhận là việc NHTM tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, nhằm tăng doanh thu tín dụng, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm đạt được hiệu quả trong kinh doanh tín dụng cả trong ngắn hạn và dài hạn. "Hiệu quả QTRRTD là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò cốt tử của sự thành công của ngân hàng trong dài hạn" (Basel Committee on Banking Supervision, 2000).
Tóm lại, có thể đề cập khái niệm QTRRTD ở các góc độ khác nhau, nhưng bản chất là giống nhau và đứng trên góc độ của quản trị học, có thể diễn giải khái niệm: QTRRTD là quá trình các ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận.
1.2.2 Sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng
Mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng ngày càng gia tăng
Sự cần thiết của QTRRTD không chỉ xuất phát từ tính chất phức tạp và nguy cơ rất lớn của RRTD mà còn do xu hướng kinh doanh của ngân hàng ngày nay càng
trở nên rủi ro hơn. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, trong giai đoạn từ 1970 đến 1995, trên thế giới trung bình một năm có một cuộc khủng hoảng ngân hàng; thì trong giai đoạn 1980 đến 1995, tỉ lệ này là 1,44. Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho mức độ rủi ro trong HĐKD ngân hàng ngày càng gia tăng bao gồm:
Thứ nhất, do quá trình tự do hóa, nới lỏng quy định trong hoạt động ngân hàng trên phạm vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng toàn cầu hóa, tự do hóa kinh tế, đề cao cạnh tranh đã trở thành phổ biến. Khi gia tăng cạnh tranh cũng đồng nghĩa với rủi ro và phá sản gia tăng. Trong lĩnh vực ngân hàng, cạnh tranh làm cho chênh lệch lãi suất biên ngày càng giảm xuống. Tác động này làm cho các ngân hàng ngày càng có xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh để bù đắp sự sụt giảm lợi nhuận, trong đó mở rộng quy mô tín dụng đồng nghĩa với việc RRTD cũng có nguy cơ gia tăng. Bên cạnh đó, quy luật đào thải của cạnh tranh sẽ làm tăng mức độ phá sản của các khách hàng của ngân hàng kéo theo sự thiệt hại cho ngân hàng
Thứ hai, HĐKD của ngân hàng ngày càng theo xu hướng đa năng, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội nhập cạnh tranh gay gắt vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới.Trong lĩnh vực tín dụng các sản phẩm tín dụng có bước phát triển mạnh mẽ, vượt xa so với sản phẩm tín dụng truyền thống. Các sản phẩm tín dụng dựa trên cơ sở của sự phát triển công nghệ như thẻ tín dụng, cho vay cá thể… luôn chứa đựng rủi ro mới. Nhưng dưới áp lực của cạnh tranh thì việc mở rộng và đa dạng hóa sản phẩm cũng như phạm vi của hoạt động tín dụng mang ý nghĩa sống còn với các ngân hàng. Với sự đa dạng phức tạp của sản phẩm tín dụng cũng như RRTD càng đòi hỏi QTRRTD phải được chú trọng nâng cấp tương xứng.
Thứ ba, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam, thì môi trường kinh tế chưa ổn định, hệ thống pháp luật đang xây dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt động ngân hàng càng trở nên rủi ro hơn, vì vậy việc bắt tay ngay từ đầu thực hiện tốt công tác QTRRTD là một công việc tối quan trọng.
Quản trị rủi ro tốt là một lợi thế cạnh tranh và là công cụ tạo ra giá trị của NHTM
"Hãy nói cho tôi biết bạn quản lý rủi ro ra sao, tôi sẽ nói ngân hàng bạn thế nào?" - Tiến sĩ S. L. Srinivasulu, Chủ tịch tập đoàn KESDEE Inc - nơi cung cấp các giải pháp học tập trực tuyến (e-learning) về tài chính có trụ sở tại California, Hoa Kỳ đã phát biểu về tầm quan trọng của quản trị rủi ro trong ngân hàng. Từ lâu, công tác quản trị rủi ro được xem như là một chức năng nhằm thỏa mãn yêu cầu tuân thủ pháp chế và kiểm soát nội bộ. Dưới góc nhìn này, rủi ro được xem như là "điều không mong muốn nhưng phải chấp nhận" trong kinh doanh, và hoạt động quản trị rủi ro
được coi là một trung tâm chi phí. Ông Srinivasulu cho rằng các ngân hàng nên chuyển hướng tiếp cận ngược lại: Quản trị rủi ro tốt chính là một nguồn lợi thế cạnh tranh và là một công cụ tạo ra giá trị, cũng góp phần tạo ra các chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn.
RRTD là nguyên nhân chủ yếu tạo ra đổ vỡ của ngân hàng
Sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng tại Việt Nam trong những năm 1989 - 1990 do chất lượng các khoản cho vay yếu kém, không thu hồi được. Những năm 1999- 2000, cũng từ nguyên nhân này NHNN đã đặt một số ngân hàng vào tình trạng giám sát đặc biệt, những vụ án lớn và việc xử lý một khối lượng hàng ngàn tỷ đồng nợ tồn đọng của các ngân hàng từ năm 2000 về trước đều bắt nguồn từ những khoản cho vay khó đòi. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 bắt nguồn từ Đông Nam Á đã làm cho nhiều ngân hàng ở châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, hoặc buộc phải sáp nhập, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng tăng cao. Thời điểm trước cuộc khủng hoảng, tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng Thái Lan là 13%, Indonesia 13%, Phillipine 14%, Malaysia 10%. Năm 2008 xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế Mỹ bắt nguồn từ làn sóng cho vay thế chấp nhà đất rủi ro cao đã minh chứng rất rõ căn nguyên cơ bản tạo ra ở vấn đề của ngân hàng là RRTD. Vì vậy, vấn đề QTRRTD luôn luôn là vấn đề sống còn của NHTM.
1.2.3 Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
1.2.3.1 Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng
- Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro: Ngân hàng cần xác định được tầm nhìn, mục tiêu, sứ mệnh của ngân hàng để từ đó đưa ra “khẩu vị rủi ro” - mức độ rủi ro có thể chấp nhận được - để từ đó hoạch định chiến lược quản trị rủi ro phù hợp. Chiến lược quản trị rủi ro phải trả lời được giải quyết được các vấn đề quan trọng: Thái độ của ngân hàng đối với RRTD; Mức độ chấp nhận RRTD của ngân hàng; Năng lực QTRRTD của ngân hàng.
- Xây dựng chính sách QTRRTD: Để thực thi Chiến lược quản trị rủi ro, trong từng thời kỳ, Ban điều hành đưa ra các chính sách QTRRTD là cơ sở để hình thành nên quy trình tín dụng với những hướng dẫn nghiệp vụ chi tiết, các bước cụ thể trong quá trình cấp tín dụng. Chính sách quản trị rủi ro cũng quy định giới hạn cho vay đối với khách hàng, phân loại nợ, trích lập dự phòng. Chính sách phải vạch ra cho cán bộ tín dụng phương hướng hoạt động và một khung tham chiếu rõ ràng để làm căn cứ xem xét các nhu cầu vay vốn.
+ Mức ủy quyền phán quyết là hạn mức tín dụng tối đa mà hội sở chính giao cho chi nhánh được toàn quyền quyết định.
+ Giới hạn rủi ro là mức rủi ro tối đa mà ngân hàng có thể chịu đựng được để đảm bảo đạt được mức lợi nhuận tương ứng.
+ Quản trị danh mục cho vay
Ngân hàng phải thường xuyên phân tích và theo dõi danh mục tín dụng đặc biệt là các khoản nợ xấu, nợ có vấn đề để có những biện pháp xử lý kịp thời khi có rủi ro xảy ra. Trên cơ sở danh mục cho vay, ngân hàng tiến hành phân loại nợ để phân loại các khoản nợ vào các nhóm nợ trong hạn, nợ cần đặc biệt lưu ý, nợ dưới chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần hết sức lưu ý đến các khoản nợ đặc biệt chú ý vì khi có biến động bất lợi xảy ra đối với hoạt động cho vay của ngân hàng, các khoản này dễ bị chuyển thành nợ xấu. Ngân hàng đưa ra các biện pháp quản trị các khoản nợ trên để đảm bảo chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống thông tin tín dụng tập trung gồm các báo cáo định kỳ và đặc biệt. Báo cáo định kỳ có thể bao gồm các báo cáo liên quan đến các nội dung sau: Nhóm khách hàng có dư nợ tín dụng lớn nhất, các khoản dư nợ lớn nhất; phân tích danh mục tín dụng, các trường hợp ngoại lệ (ví dụ vượt hạn mức); các khoản nợ xấu và khó đòi; các dấu hiệu cảnh báo sớm, dự phòng cho từng khoản dư nợ đơn lẻ, lợi nhuận cho từng khách hàng và sản phẩm, nhật ký theo dõi các khoản vay.
+ Rà soát chính sách quản trị rủi ro theo từng thời kỳ
Chính sách QTRRTD với mục tiêu mở rộng tín dụng đồng thời hạn chế RRTD nhằm nâng cao thu nhập cho ngân hàng. Chính sách QTRRTD nhằm hạn chế rủi ro như: chính sách tài sản đảm bảo, chính sách bảo lãnh, chính sách đồng tài trợ… Chính sách QTRRTD là cơ sở để hình thành nên quy trình tín dụng với những hướng dẫn nghiệp vụ chi tiết, các bước cụ thể trong quá trình cấp tín dụng. Chính sách phải giúp cho cán bộ tín dụng phương hướng hoạt động và một khung tham chiếu rõ ràng để làm căn cứ xem xét các nhu cầu vay vốn. Điều này tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời
1.2.3.2 Xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng
Mô hình QTRRTD chính là hệ thống các mô hình bao gồm mô hình tổ chức quản trị rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản trị tín dụng của ngân hàng. Mô hình QTRRTD phản ánh một cách hệ thống các vấn đề sau:
(i) Các cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn, các chốt kiểm soát rủi ro trong một quy trình nghiệp vụ.
(ii) Các công cụ đo lường, phát hiện rủi ro
(iii) Các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro mới phát sinh.
(iv) Các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó một khi có rủi ro xảy ra.
Mô hình QTRRTD phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM ngay cả trong những điều kiện thị trường đầy biến động, nguy có rủi ro không ngừng gia tăng. Như vậy, mô hình QTRRTD được hiểu như sau:
Mô hình QTRRTD là cách thức tổ chức quản trị, đo lường, kiểm soát RRTD nhằm khống chế RRTD trong một giới hạn cho phép theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận của tổ chức tín dụng.
A. Mô hình QTRRTD dưới góc độ nghiên cứu đơn lẻ
a. Theo tiêu chí đo lường RRTD:
Mô hình 1: Mô hình đo lường RRTD định tính
Mô hình này đi sâu vào nghiên cứu nhóm 5 chỉ tiêu (còn gọi là phương pháp 5C) sau:
Capacity - Cash flow (Năng lực - Luồng tiền dự tính trả nợ).Yếu tố được coi là quan trọng nhất trong số năm yếu tố. Năng lực đề cập đến khả năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh và hoàn trả khoản vay thành công của khách hàng.Ngân hàng muốn biết chính xác khách hàng sẽ trả nợ bằng cách nào. Đánh giá năng lực được dựa trên việc đánh giá các yếu tố: kinh nghiệm điều hành, báo cáo tài chính quá khứ, sản phẩm, tình hình hoạt động trên thị trường và khả năng cạnh tranh. Từ đó, ngân hàng dự tính được luồng tiền sẽ được sử dụng để trả nợ, thời gian trả nợ và xác suất trả nợ thành công của khách hàng. Việc đánh giá lịch sử các khoản vay và thanh toán các khoản vay, dù là của cá nhân hay các khoản vay thương mại cũng được coi là chỉ báo cho khả năng chi trả trong tương lai
Capital (Cấu trúc vốn) Là số vốn khách hàng đầu tư vào doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ yên tâm hơn nếu khách hàng có vốn chủ sở hữu đủ lớn.Vốn chủ sử hữu có thể được huy động trong quá trình hoạt động, giúp đảm bảo cho trạng thái khoản vay của ngân hàng. Ngân hàng cũng nhìn nhận vốn chủ sở hữu như là chỉ báo của mức độ cam kết cũng như mức rủi ro của khách hàng đối với kinh doanh của mình và sẽ cảm thấy thoải mái hơn nếu biết khách hàng sẽ mất rất nhiều nếu công việc kinh doanh của họ không thành công. Sẽ tốt hơn nếu nguồn vốn này được lấy từ chính tài sản của cổ đông
Collateral (Tài sản thế chấp) Ngân hàng có thể xử lý tài sản thế chấp của khách hàng khi khách hàng bị phá sản hoặc mất khả năng chi trả nợ. Ngân hàng được đảm bảo quyền ưu tiên xử lý tài sản thế chấp của khách hàng trước các chủ nợ khác. Ngân hàng cũng có thể yêu cầu khách hàng sử dụng các tài sản cá nhân khác ngoài công ty làm tài sản thế chấp. Đối với ngân hàng, đây là sự đảm bảo và là nguồn trả nợ thay thế ngoài dòng tiền trả nợ dự tính. Một số ngân hàng có thể yêu cầu có bảo lãnh cùng với tài sản đảm bảo. Bảo lãnh là hình thức bên thứ ba ký bảo lãnh cam kết thanh toán nếu người vay không trả được nợ