Định Hướng Tăng Cường Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam Đến 2030


Những hạn mức phê duyệt, tiêu chuẩn về khách hàng, hệ thống chấm điểm tín dụng mặc dù đã được chú trọng thiết lập trên toàn hệ thống. Song những thước đo rủi ro theo thực hành quốc tế tốt nhất như PD, LGD, EAD chưa thể được tính toán. Mặt khác, những hạn mức, tiêu chuẩn trên mới chỉ được thiết lập dựa trên những yếu tố định tính. Chẳng hạn, hệ thống xếp hạng tín dụng khách hàng chỉ dừng lại ở việc tính thẻ điểm và khoảng giá trị cho từng nhân tố mà chưa có mô hình thống kê tính toán khả năng trả nợ của khách hàng. Hầu hết việc quản trị trị rủi ro được thực hiện dựa trên những đánh giá định tính. Khẩu vị rủi ro của ngân hàng, do đó, mới chỉ được thể hiện rất "mờ nhạt" ở những chỉ đạo tín dụng mang tính thời điểm. Nguyên tắc hoán đổi lợi nhuận - rủi ro chưa được áp dụng triệt để. Điều này thể hiện ở việc định giá khoản vay còn mang tính chung chung, áp dụng cùng một lãi suất đối với các khoản vay có mức độ rủi ro khác nhau. Kết quả là, việc kiểm tra, giám sát tính tuân thủ của các quy định rủi ro gặp nhiều khó khăn, hiệu quả hạn chế.

c. Nhân sự của ngân hàng nói chung và của bộ phận quản trị trị rủi ro còn hạn chế về trình độ, nhận thức đối với quản trị RRTD

Nhận thức của cán bộ ngân hàng về rủi ro nói chung và RRTD nói riêng không khỏi có những hạn chế nhất định. Cán bộ ngân hàng luôn có tư tưởng là mức độ RRTD càng thấp càng tốt, chưa tính đến tương quan giữa thu nhập và rủi ro. Quá trình chuyển từ quan niệm "quản trị trị rủi ro có nghĩa là không để có rủi ro" sang "quản trị trị rủi ro tốt có nghĩa là đảm bảo sự ổn định của lợi nhuận" chưa được thấm nhuần trong quản trị RRTD của cán bộ ngân hàng.

Thực tế chung của các ngân hàng thương mại Việt Nam đó là chưa chú trọng phát triển, duy trì một đội ngũ chuyên gia quản trị trị rủi ro. Thực trạng này cũng xuất phát từ tư duy không coi trọng công tác rủi ro của các ngân hàng thương mại. Hầu hết cán bộ rủi ro đều là những cán bộ tín dụng chuyển sang, không có chuyên ngành sâu về quản trị RRTD. Trong khi đó, nghiệp vụ quản trị trị rủi ro trên thế giới đã có những tiến bộ vượt bậc với những ứng dụng của các thuật toán, mô hình thống kê hiện đại. Điều này đòi hỏi người làm công tác rủi ro vừa phải có kinh nghiệm tín dụng, vừa phải có kiến thức về các mô hình thống kê. Hạn chế về trình độ cán bộ còn thể hiện ở đội ngũ cán bộ kiểm tra kiểm soát tín dụng. Trong một thời gian dài, cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm soát hầu hết lại là những cán bộ tín dụng không có năng lực. Do đó, công tác kiểm tra, kiểm soát, một phần quan trọng của quản trị RRTD được thực hiện một cách hình thức, hiệu quả kém.

Chất lượng các cán bộ tham gia vào quy trình tín dụng bao gồm cán bộ lãnh đạo và cán bộ tín dụng cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến RRTD của ngân hàng.


Trình độ các cán bộ tham gia công tác tín dụng, kể cả các cấp lãnh đạo tín dụng ở một số chi nhánh còn nhiều bất cập cả về số lượng và chất lượng. Thực tế với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động tín dụng, sự phức tạp của các sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho khách hàng đã khiến cho chất lượng một đội ngũ cán bộ không còn đáp ứng được yêu cầu.

Nhân sự bố trí cho bộ phận quản trị trị rủi ro ở hầu hết các chi nhánh còn chưa phù hợp, nhiều trường hợp cán bộ chưa từng có kinh nghiệm tín dụng, thậm chí làm ở các bộ phận hậu cần, phục vụ... cũng được phân công công tác tại bộ phận quản trị trị rủi ro. Nhiều lãnh đạo chi nhánh chưa quan tâm đúng mức đến việc phát triển bộ phận này nên thực hiện mang tính chất đối phó, đảm bảo yêu cầu của VietinBank nên bộ phận quản trị trị rủi ro chưa thực hiện được đầy đủ chức năng nhiệm vụ và chưa phát huy được hiệu quả của bộ máy này. Bên cạnh đó sự thoái hóa biến chất của một số cán bộ đã gây ra tình trạng thông đồng khách hàng vay ké để khách hàng lợi dụng lừa đảo chiếm đoạt tiền vốn của ngân hàng.

d. Cơ sở dữ liệu, thông tin tín dụng chưa đáp ứng yêu cầu quản trị

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Việc thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin mới được các ngân hàng quan tâm từ khi hệ thống ngân hàng lõi mới được triển khai. Trước đó, mặc dù đã phát triển những phần mềm xử lý giao dịch cho vay, thanh toán quốc tế, hệ thống báo cáo... song đều mang tính phân tán ở cấp độ từng chi nhánh riêng lẻ. Do đó, thông tin khai thác ở cấp toàn hàng phục vụ cho quản lý, điều hành, kiểm soát rủi ro chủ yếu được tổng hợp thủ công, dẫn đến hạn chế lớn về khối lượng và chất lượng xử lý.

Sau khi triển khai hệ thống ngân hàng lõi, mặc dù thông tin về các giao dịch được quản lý trên một cơ sở dữ liệu tập trung và thống nhất trên toàn bộ các chi nhánh. Những thông tin phục vụ quản trị trị rủi ro trước hết được xây dựng trên từng khách hàng, từng khoản vay. Song, việc nhập thông tin của khách hàng, khoản vay vẫn chưa tự động hoàn toàn và do đó dẫn đến chậm trễ trong phân tích thông tin. Bên cạnh đó, dữ liệu khách hàng để có thể đánh giá và phân tích cần có thông tin đủ lớn cả về lịch sử hoạt động, lịch sử tín dụng của khách hàng, tuy nhiên khách hàng có quan hệ với nhiều các tổ chức tín dụng khác nhau nhưng các tổ chức tín dụng không có hệ thống liên kết và chia sẻ thông tin khách hàng. Điều này dẫn đến một thực trạng diễn ra trong thời gian qua đó là một khách hàng đang vay và có tài sản thế chấp tại một ngân hàng khác nhưng vẫn sử dụng các tài sản thế chấp đó để vay tại VietinBank, điều này dẫn đến rủi ro thu hồi nợ khi phát sinh các khoản nợ xấu của khách hàng.

Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 11

e. Hệ thống công nghệ thông tin chưa đáp ứng yêu cầu quản trị rủi ro


Mặc dù trong giai đoạn 2011 - 2017, VietinBank đã triển khai mạnh các giải pháp về công nghệ thông tin như: Dự án xây dựng phần mềm quản lý và thu hồi nợ xấu, dự án quản trị hạn mức trên core-banking, dự án xây dựng phần mềm xếp hạng và phê duyệt tín dụng đối với khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), dự án xây dựng công cụ quản trị rủi ro thị trường, hệ thống cảnh báo sớm rủi ro…và các mô hình định lượng theo phương pháp tiên tiến cũng đang được nghiên cứu triển khai; tin học hóa quá trình cấp và phê duyệt tín dụng. Bên cạnh đó, các dự án nâng cao nền tảng công nghệ thông tin như đầu tư máy chủ với dung lượng phù hợp đáp ứng nhu cầu phát triển mới, xây dựng hệ thống an ninh mạng, dự án xây dựng kho dữ liệu tập trung (Data wearhouse)... Tuy nhiên, hầu hết các dự án trên đều mới được triển khai hoặc đang được nghiên cứu triển khai, do vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thống kê, phân tích, xử lý dữ liệu khách hàng, ứng dụng các phần mềm đo lường RRTD khách hàng, danh mục tín dụng hay rủi ro toàn bộ ngân hàng chưa được áp dụng.

Những hạn chế của Hệ thống công nghệ thông tin ảnh hưởng đến việc quyết định mô hình quản trị RRTD của ngân hàng cũng như việc xây dựng các công cụ đo lường RRTD và hệ thống cảnh báo sớm RRTD, một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá trình độ phát triển quản trị RRTD đối với ngân hàng hiện đại.

2.4.3.2. Nguyên nhân khách quan

a. Các văn bản quy định và hướng dẫn quản trị rủi ro và quản trị RRTD của Ngân hàng Nhà nước còn hạn chế

Mặc dù đã có những động thái để tăng cường hoạt động quản trị trị rủi ro của các NHTM, song đến nay vẫn chưa có một hướng dẫn, quy định cụ thể nào về vấn đề này. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (hiện nay đã được thay thế bởi Thông tư 03/2013/TT- NHNN) về phân loại nợ, trích lập dự phòng ra đời từ năm 2005 chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn các NHTM thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng. Trong đó, theo quy định tại Điều 7, các NHTM chưa bắt buộc phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng cho đến tháng 5 năm 2008. Tuy nhiên, một số NHTM lớn cũng đã xây dựng được cho mình hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Song, như một tư duy phổ biến, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng xây dựng trong thời gian vừa qua chủ yếu là để phục vụ công tác phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro. Trong khi đó, những chức năng cơ bản khác của hệ thống này như hỗ trợ quyết định tín dụng, định giá khoản vay, xây dựng hạn mức chưa được quan tâm khai thác triệt để.

Bên cạnh đó, Hiệp ước Basel II ra đời từ năm 2003, nhưng những nguyên tắc quản trị RRTD của nó cũng chưa được Ngân hàng Nhà nước đề cập cho các văn bản quy định của họ. Các NHTM Việt Nam chưa có lộ trình cho việc phát triển hệ thống quản trị


trị rủi ro theo Basel II. Nguyên nhân của việc chậm trễ này một phần là do hệ thống ngân hàng Việt Nam còn đang phát triển ở mức thấp so với thế giới. Do đó, việc áp dụng ngay tức khắc những chuẩn mực này có thể là không khả thi. Tuy nhiên, NHNN cũng cần đưa ra những hướng dẫn, làm bước chuẩn bị cho các NHTM trong việc từng bước tiến tới chuẩn mực quốc tế về quản trị trị rủi ro.

Với thực trạng quản trị RRTD còn ngắn hạn, thiếu tính bền vững, lâu dài, thiên về xử lý hậu quả mà tính phòng ngừa chưa cao, thiên về các yếu tố định tính mà chưa có khả năng lượng hóa cụ thể rủi ro như hiện tại, có thể thấy, để hoàn thiện công tác quản trị RRTD nói riêng và quản trị trị rủi ro nói chung, VietinBank sẽ phải hoàn thành những bước đi cải tổ mạnh mẽ hơn nữa để xây dựng và cơ cấu lại toàn bộ khuôn khổ và hạ tầng quản trị RRTD hiện thời.

b. Những khó khăn của nền kinh tế cùng với sự bất ổn định của hoạt động tài chính

- ngân hàng

Giai đoạn 2011 - 2017 là khoảng thời gian khó khăn nhất trong nhiều năm qua đối với hệ thống ngân hàng. Một số điểm nghẽn của nền kinh tế vẫn chưa thông. Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán vẫn còn nhiều bất ổn nội tại. Song, với những nỗ lực thường xuyên, liên tục, cả hệ thống đã bước đầu vượt qua những khó khăn. Nhờ đó, không những rủi ro của hệ thống giảm bớt với những chuyển biến tích cực như thanh khoản khả quan hơn, lãi suất huy động đã giảm 2-3% và lãi suất cho vay giảm 3-5% - ngang bằng mức 2006, mà quá trình tái cơ cấu và kết quả hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng đã có những cải thiện đáng kể.

Các chính sách liên quan đến hoạt động ngân hàng như tỷ giá, lãi suất, giá vàng, các quy định trong kinh doanh ngoại hối, bất động sản có những thay đổi liên tục. Trong khi đó, tại Mỹ, có những giai đoạn FED chỉ được phéo thay đổi lãi suất không quá 2 lần trong một năm, mỗi lần thay đổi không quá 0,5%/năm. Những thay đổi trên dẫn đến việc các ngân hàng thương mại có chính sách giật cục, đối phó trong từng giai đoạn cụ thể, không có đủ cơ sở để xây dựng các chiến lược kinh doanh dài hạn.

NHNN đã thực hiện 6 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động, từ mức 14% xuống còn 8% trong năm 2012 và 2 lần điều chỉnh lãi suất xuống 7% trong năm 2013 và 2 lần điều chỉnh xuống còn 5,5% trong năm 2014. Đồng thời, NHNN chỉ đạo các ngân hàng giảm lãi suất cho vay quanh mức 10% - 12% đễ hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hỗ trợ và các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Mặc dù những chính sách hỗ trợ từ phía NHNN là quyết liệt, kịp thời, nhưng trong bối cảnh khó khăn chung của các doanh nghiệp, hàng tồn kho tăng cao, đầu ra tiêu


thụ sản phẩm khó khăn, khả năng hấp thụ vốn thấp nên tăng trưởng tín dụng toàn ngành ngân hàng năm 2012 chỉ đạt 8,91% và là lần đầu tiên trong vòng 20 năm, tăng trưởng tín dụng ở mức một con số, năm 2013 tăng trưởng tín dụng có sự cải thiện ở mức 12,5% so với năm 2012, kết thúc năm 2014, tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức khoảng 13% so với năm 2013. Bên cạnh đó, các TCTD cũng phải đối mặt với bài toán nợ xấu tăng cao, đạt mức 4,08% tại thời điểm cuối năm 2012 và giảm nhẹ xuống mức 3,63% cuối năm 2013 và 3,25% năm 2014. Năm 2015, kinh tế vĩ mô có chiều hướng tốt hơn với tăng trưởng tín dụng dự kiến khoảng 18% và nợ xấu kiểm soát ở mức 3%. Tuy nhiên, lợi nhuận ngân hàng bị ảnh hướng bởi việc trích dự phòng nợ xấu của các năm trước.

Hoạt động tín dụng, nguồn thu nhập chính của ngân hàng, tăng trưởng thấp trong khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao đã ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động và lợi nhuận của các ngân hàng. Theo ước tính của NHNN, tổng lợi nhuận của ngành ngân hàng năm 2012 là khoảng 28 nghìn tỷ đồng chỉ tương đương 50% lợi nhuận ngành ngân hàng năm 2011. Năm 2013 trên 50% tổng số Ngân hàng không đạt chỉ tiêu lợi nhuận kế hoạch. Năm 2014 và 2015, hầu hết các ngân hàng có mức lợi nhuận thấp hơn kế hoạch, năm sau thấp hơn năm trước. Đó chính là do ảnh hưởng của giai đoạn mức nợ xấu gia tăng.

c. Hệ thống thông tin, dữ liệu khách hàng chưa đầy đủ, đồng bộ, minh bạch và tin

cậy

Hiện nay các NHTM chưa quen trao đổi thông tin về tình hình khách hàng cho

các ngân hàng bạn bởi lý do cạnh tranh. Bên cạnh đó thông tin tại trung tâm thông tin tín dụng NHNN (CIC) chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngân hàng, mà chính các cơ sở dữ liệu khách hàng này là yếu tố quan trọng quyết định việc xây dựng các công cụ đo lường RRTD cũng như hệ thống cảnh bảo sớm RRTD.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, thực trạng chung hiện nay là các doanh nghiệp không tuân thủ nghiêm ngặt chế độ báo cáo tài chính, bản thân họ không thấy tầm quan trọng của báo cáo tài chính nên việc lập ra các báo cáo tài chính gửi ngân hàng không bài bản. Các báo cáo tài chính gửi ngân hàng có chất lượng kém: thể hiện ở hai mặt thiếu thông tin và sai lệch thông tin. Thông tin thiếu sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phân tích, đánh giá thực trạng của khách hàng, cán bộ ngân hàng phải đến tận doanh nghiệp để xác minh lại thông tin, gây phiền toái mất thời gian. Ngoài ra, rất ít các doanh nghiệp hiện nay thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính. Do vậy, ngân hàng khó có thể phát hiện ra sai sót trong việc chấp hành chế độ kế toán của những doanh nghiệp này. Hệ quả là việc đưa ra phán quyết tín dụng đôi khi không chuẩn xác.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản về quản trị RRTD đã đề cập ở chương 1, NCS đã đánh giá thực trạng quản trị RRTD tại VietinBank giai đoạn 2011 - 2017. Để đánh giá đúng thực trạng quản trị RRTD tại VietinBank, NCS đã kết hợp kết quả khảo sát bằng bảng hỏi, phỏng vấn chuyên gia và thu thập dữ liệu thứ cấp giai đoạn 2011 - 2017 tại VietinBank về các vấn đề: Chiến lược và khẩu vị RRTD, tổ chức bộ máy quản trị RRTD, chính sách quản trị RRTD, qui trình, mô hình và thủ tục quản trị RRTD. Từ đó đánh giá các kết quả đạt được, các hạn chế và nguyên nhân các hạn chế. Kết quả đánh giá chương 2 là cơ sở để NCS đề xuất các giải pháp trong chương 3


CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM


3.1 ĐỊNH HƯỚNG TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM ĐẾN 2030

3.1.1 Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam

Cùng với quá trình chuyển đổi và phát triển của nền kinh tế Việt Nam, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung, VietinBank nói riêng, trong giai đoạn đổi mới vừa qua đã đạt được sự phát triển căn bản và toàn diện, từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Để tiếp tục phát triển nhanh, bền vững, hội nhập thành công, giữ vững vai trò chủ lực của VietinBank ở thị trường Việt Nam, định hướng chiến lược phát triển VietinBank trong những năm tới là tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại triệt để và toàn diện hơn nhằm: Xây dựng VietinBank trở thành tập đoàn tài chính mạnh, hiện đại, phát triển bền vững và giữ vị trí hàng đầu Việt Nam; hoạt động kinh doanh đa năng với chất lượng dịch vụ cao; năng lực tài chính lành mạnh; trình độ công nghệ, nguồn nhân lực và quản trị ngân hàng đạt mức tiên tiến theo các thông lệ chuẩn mực quốc tế; phấn đấu đến năm 2020 đưa VietinBank trở thành tập đoàn tài chính mạnh trong khu vực.

Năm 2018, kinh tế thế giới tiếp tục có những dấu hiệu phục hồi nhưng tốc độ còn chậm và chưa bền vững; thị trường tài chính quốc tế chứa đựng nhiều rủi ro. Ở trong nước, kinh tế đã đạt được những kết quả đáng kể, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu đặt ra... Quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng được đẩy mạnh, giúp nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị của các ngân hàng thương mại, hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội.

Trong bối cảnh đó, định hướng về chiến lược phát triển của VietinBank tập trung vào mục tiêu xây dựng một ngân hàng đa năng hiện đại, với hai trụ cột chính là ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư với các mục tiêu cụ thể như sau:

Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; giữ vững vị thế chủ lực, đi đầu trong thực thi chính sách chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ và NHNN, tuân thủ pháp luật.


Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam đẩy mạnh tái cấu trúc, hoàn thiện chuẩn hóa mô hình tổ chức. Tái cơ cấu tổ chức ngân hàng thông qua việc thành lập các khối kinh doanh, khối quản trị rủi ro , khối vận hành, khối tài chính...nhằm tập trung chức năng quản lý xuyên suốt các lĩnh vực hoạt động kinh doanh và quản trị điều hành từ Hội sở chính đến chi nhánh, phù hợp với thông lệ các ngân hàng thương mại hiện đại trên thế giới.

Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản trị điều hành, quản trị rủi ro hướng tới chuẩn mực quốc tế, đảm bảo sự minh bạch, hiệu quả và hiện đại. Chuẩn hóa lại quy trình, quy định, cơ chế chính sách đảm bảo linh hoạt theo đặc điểm của thị trường Việt Nam nhưng phù hợp thông lệ quốc tế, trên cơ sở tăng trưởng đi đôi với kiểm soát rủi ro. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro theo chuẩn mực Basel 2, 3.

Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam chú trọng phát triển nguồn nhân lực, coi đây là nền tảng co bản quyết định sự thành công của ngân hàng. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng - sử dụng - đào tạo - quy hoạch, đặt ra lộ trình cũng như các chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho các vị trí chủ chốt trong tương lai của ngân hàng.

Mặc dù kinh tế trong nước đã hồi phục song chưa thoát khỏi các khó khăn. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nguy cơ rủi ro tín dụng phát sinh, nếu ngân hàng không thực hiện tốt công tác quản lý tín dụng thì nợ xấu sẽ gia tăng, nguy cơ rủi ro thanh khoản cũng tăng cao. Bên cạnh đó, lãi suất thị trường biến động, cùng với sự tồn tại của trạng thái bất cân xứng kỳ hạn giữa Tài sản và Nợ của ngân hàng, làm gia tăng nguy cơ rủi ro lãi suất, dẫn đến thu nhập lãi ròng và giá trị ròng của ngân hàng bị suy giảm nếu không thực hiện tốt công tác quản trị rủi ro lãi suất. Vì vậy, mục tiêu trong những năm tới, VietinBank muốn khẳng định vị thế của mình tại thị trường trong nước và khu vực. Để đạt được mục tiêu đề ra, VietinBank đã xác định chiến lược, định hướng phát triển để trở thành ngân hàng có quy mô và hiệu quả hoạt động hàng đầu ngành Ngân hàng Việt Nam, giữ vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ nền kinh tế. Tiếp tục phát triển mạnh hoạt động kinh doanh đi đôi với mục tiêu an toàn, hiệu quả, tạo nền tảng phát triển bền vững, luôn đảm bảo mục tiêu bảo toàn và gia tăng giá trị ròng cho các cổ đông. Bên cạnh đó, VietinBank tiếp tục thực hiện nâng cao năng lực quản trị rủi ro, chuẩn bị các điều kiện cần thiết và phù hợp để thực hiện lộ trình tuân thủ các chuẩn mực của Basel II, III. Tập trung thực hiện tái cấu trúc toàn diện ngân hàng theo hướng hiện đại. Nâng cao tiềm lực tài chính, chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cấp mô hình tổ chức, mô hình kinh doanh, quản trị điều hành phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo cho sự


tăng trưởng, phát triển bền vững của mình.

3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam

Trong giai đoạn từ nay đến 2030, VietinBank đã xây dựng định hướng chung trong hoạt động tín dụng, cụ thể như sau:

- Tăng trưởng tín dụng trên nguyên tắc chọn lọc, an toàn, hiệu quả đảm bảo danh mục tín dụng hợp lý, phù hợp với định hướng chiến lược trong giai đoạn này. Bên cạnh mục tiêu tăng trưởng tín dụng, các Khối /chi nhánh tập trung ưu tiên nguồn lực xử lý và thu hồi nợ xấu.

- Phát triển tín dụng gắn với chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng là trọng tâm ưu tiên. Một mặt tập trung công tác rà soát, thu hồi nợ xấu, nợ quá hạn lành mạnh danh mục tín dụng. Mặc khác, thực hiện trích lập đầy đủ dự phòng đảm bảo nguồn tài chính sẵn sàng bù đắp các rủi ro có khả năng phát sinh.

- Tăng trưởng tín dụng đi đôi với công tác huy động vốn để đảm bảo việc phát triển kinh doanh bền vững, việc cấp tín dụng/giải ngân cho khách hàng bám sát chi tiêu huy đồng vốn.

- Công tác phát triển tín dụng đảm bảo khai thác tối ưu các nhu cầu của khách hàng thông qua việc cung cấp sản phẩm trọn gói trên nền tảng phân phối đa kênh. Các quyết định cấp tín dụng được cân nhắc thận trọng trên phương tiện cân đối giữa tổng thu nhập và rủi ro.

Định hướng tăng trưởng tín dụng. Hàng năm VietinBank đều đưa ra định hướng tăng trưởng tín dụng cho toàn ngân hàng theo từng khối khách hàng lớn (CLB), doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) và khách hàng cá nhân (KHCN). Định hướng tốc độ tăng trưởng tín dụng (Bao gồm cho vay, mua trái phiếu doanh nghiệp, bảo lãnh, dư cam kết phát hành dưới hình thức chứng từ - LC nhập khẩu).

3.1.3 Định hướng tăng cường quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam

Cùng với những định hướng về phát triển hoạt động tín dụng thì trong giai đoạn từ nay đến 2030, VietinBank xây dựng định hướng trong quản trị RRTD, cụ thể như sau:

- Quản trị RRTD là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển chung của ngân hàng.

- Các chính sách, cơ chế trong hoạt động tín dụng và quản trị RRTD đảm bảo luôn duy trì tốc độ tăng trưởng dự nợ, tăng trưởng lợi nhuận của ngân hàng nhưng duy trì an toàn trong hoạt động tín dụng, đảm bảo tỷ lệ nợ xấu dưới 2,5%.


- Thấm nhuần văn hóa quản trị rủi ro, nghiêm túc tuân thủ các quy định / chính sách / điều kiện phê duyệt của VietinBank, đặc biệt coi trọng tuân thủ giám sát sau giải ngân. Tăng cường công tác giám sát chất lượng tín dụng từ xa, phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro, đưa ra các cảnh báo kịp thời, hiệu quả.

- Kiểm tra tình hình thực tế để nắm vững thực trạng tài chính, năng lực kinh doanh, tài sản đảm bảo và những khó khăn thực sự của khách hàng. Xây dựng và triển khai các giải pháp phù hợp với từng khách hàng, hạn chế thấp nhất phát sinh nợ xấu, nợ quá hạn, đồng hành hỗ trợ khách hàng vượt qua giai đoạn khủng hoảng.

- Triển khai linh hoạt, đồng bộ các biện pháp xử lý và thu hồi nợ phù hợp (Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, khách hàng chủ động trả nợ, miễn giảm lãi). Khách hàng chủ động bán tài sản để trả nợ, khách hàng bán tài sản để trả nợ thông qua Trung tâm bán đấu giá, mua tài sản bảo đảm bằng gói cấp vốn cho VietinBank AMC (trung tâm quản trị tài sản của VietinBank); mua bán nợ thông qua VAMC hiệu quả đối với từng khách hàng, từng đơn vị để hạn chế tác động của Thông tư 02 về phân loại nợ và trích lập dự phòng có hiệu lực từ 01/06/2014 (Quyết định 780 hết hiệu lực vào đầu năm 2014) và mục tiêu chất lượng tín dụng của VietinBank (nợ xấu và nợ quá hạn).

- Tăng cường thu hồi các khoản nợ xấu, nợ xấu đã xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro, đẩy mạnh thu hồi lãi treo. Hàng năm VietinBank đều đưa ra mục tiêu thu hồi các khoản nợ xấu dựa trên các tỷ lệ đặt ra như: Tỷ lệ thu hồi nợ xấu nội bảng; Tỷ lệ thu hồi nợ ngoại bảng.

- Tập trung thu các khoản lãi treo, lãi phạt, phí bảo lãnh, phí dịch vụ, chú ý không để tình trạng bỏ sót, nhập liệu số liệu sai dẫn đến thu thiếu lãi của khách hàng.

- Thực hiện trích lập dự phòng đảm bảo nguồn tài chính dự phòng đầy đủ cho những tổn thất có thể xảy ra (kiểm soát tỷ lệ số dư quỹ dự phòng/nợ xấu đối với từng chi nhánh).

- Tăng cường quản trị RRTD đi liền với việc áp dụng mô hình quản trị tín dụng tiên tiến và chiến lược quản trị phù hợp với điều kiện về công nghệ, nhân lực, tài chính và trình độ phát triển của ngân hàng và lộ trình tuân thủ Basel II theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.

- Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị RRTD, tăng cường sử dụng các phương pháp định lượng trong đánh giá RRTD.

- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ làm công tác quản trị RRTD nói riêng.

- Tăng cường quản trị RRTD được tiến hành đồng thời với quản trị các loại rủi ro khác như rủi ro tác nghiệp, rủi ro thị trường…


- Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng đầy đủ, minh bạch, kịp thời, có sự trao đổi thông tin tín dụng thường xuyên với các ngân hàng và trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước.

3.2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM

3.2.1 Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng toàn diện

Ngân hàng cần xây dựng Chiến lược quản trị RRTD toàn diện và đảm bảo các yêu cầu sau:

- Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng phải làm cơ sở cho việc xây dựng mô hình quản trị rủi ro phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Ngân hàng, chính sách cấp tín dụng cho các đối tượng khách hàng, các sản phẩm tín dụng, các ngành, lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý, đồng tiền cấp tín dụng; thời hạn cấp tín dụng; hạn mức cấp tín dụng; chính sách lãi suất và phi lãi suất; cơ chế xử lý các trường hợp ngoại lệ và các vấn đề khác.

- Chiến lược quản trị rủi ro phải phản ánh được mức độ chấp nhận rủi ro (khẩu vị rủi ro) của ngân hàng và mức sinh lời mà ngân hàng kỳ vọng khi chấp nhận các RRTD;

- Chiến lược quản trị rủi ro cần xem xét, đánh giá các mục tiêu về chất lượng tín dụng, thu nhập và tăng trưởng trong mối tương quan qua lại, trong quan hệ với tiềm năng nội tại của ngân hàng và với môi trường kinh doanh tổng thể.

Cùng với việc xây dựng chiến lược quản trị rủi ro thì Chiến lược quản trị rủi ro phải gắn với lựa chọn phương thức quản trị rủi ro phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Ngân hàng. Đó chính là cơ chế đánh giá, định lượng rủi ro và các biện pháp ứng phó, đưa ra các quyết định quản trị rủi to phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ngân hàng. Theo Basel II, phương thức quản trị RRTD hiện đại phát triển qua các giai đoạn như sau:

- Giai đoạn 1: Thiết lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm tính toán ba cấu phần PD (xác suất không trả được nợ), LGD (tỷ lệ tổn thất dự kiến), EAD (số dư nợ rủi ro), ngân hàng sẽ phát triển các ứng dụng trong quản trị RRTD trên nhiều phương diện, mà ứng dụng đầu tiên là tính toán, đo lường RRTD qua các thước đo EL (tổn thất dự kiến) và UL (tổn thất ngoài dự kiến) tại cấp độ một khách hàng cụ thể.

- Giai đoạn 2: Quản trị rủi ro danh mục đầu tư bằng cách lượng hóa mức tổn thất dự kiến (ELP) và ngoài dự kiến (ULP) của cả danh mục đầu tư dựa trên việc xác định độ rủi ro tương quan giữa các tài sản/ mức vỡ nợ của các tài sản có rủi ro và mức rủi ro tập trung của cả danh mục.

- Giai đoạn 3: Dựa trên các giải pháp quản trị rủi ro danh mục đầu tư, ngân hàng có thể quản trị vốn kinh tế và định giá khoản vay theo mức rủi ro tương ứng.


- Giai đoạn 4: Thay vì quản trị rủi ro danh mục một cách thụ động, ngân hàng hướng đến việc quản trị rủi ro danh mục tín dụng chủ động (ACPM - Active credit portfolio management) bằng việc xác định và chuyển giao rủi ro một cách chủ động thông qua việc sử dụng ngân quỹ tín dụng và chứng khoán hóa khoản vay (Credit Treasury and Securitisation).

- Giai đoạn 5: Mô hình toàn diện nhất là quản trị rủi ro trên cơ sở giá trị (Value - based management - VBM). Theo đó, tất cả các giá trị đã được điều chỉnh rủi ro của khoản tín dụng đơn lẻ cho đến danh mục đầu tư đều được xác định, giúp công tác quản trị RRTD được hiệu quả.


Giai đoạn 5 VBM



Giai đoạn 4

Ngân quỹ, chứng khoán

hóa


ACPM

Giai đoạn 3 Tổng hợp RR và phân bổ RR

Định giá theo rủi ro

Giai đoạn 2 Mô hình hóa RR tương đương

Đo lường mức RR tập

Tính mức tổn thất danh mục

ung

tr

LGD

EAD

Giai đoạn 1 PD EL


Sơ đồ 3.1: Phương thức quản trị RRTD

Nguồn: [47]


Trong quá trình xây dựng mô hình quản trị RRTD, VietinBank cần xây dựng theo các giai đoạn nêu trên, từ việc thiết lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ với 3 cấu phần PD (xác suất không trả được nợ), LGD (tỷ lệ tổn thất dự kiến), EAD (số dư nợ rủi ro); đến giai đoạn quản trị rủi ro theo danh mục, quản trị vốn kinh tế, chuyển từ giai đoạn quản trị rui ro thụ động sang quản trị danh mục tín dụng chủ động và giai đoạn cao nhất là quản trị rủi ro trên cơ sở giá trị.

3.2.2. Hoàn thiện mô hình quản trị rủi ro tín dụng

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí