Quản trị rủi ro hoạt động ngân hàng nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng vẫn là một chức năng rất cần thiết đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh các nền kinh tế thế giới ngày càng chịu tác động lẫn nhau một cách mạnh mẽ, cùng với kinh tế vĩ mô trong nước luôn biến động, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước chưa được cải thiện thì các ngân hàng thương mại cần xây dựng khẩu vị rủi ro, khả năng chịu đựng và các giới hạn rủi ro, cũng như làm thế nào để nâng cao quy trình, kiểm soát và quản trị các nguồn lực phục vụ cho hoạt động ngân hàng thương mại và hoạt động cấp tín dụng.
Giải quyết các vấn đề rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng không chỉ đơn giản dừng lại ở tư duy là hạn chế tổn thất và giảm thiểu chi phí thực hiện kinh doanh cho chính mỗi một hệ thống ngân hàng thương mại riêng lẻ nào mà phải nhằm mục đích chủ động cảnh báo rủi ro cho nhau và hiểu rõ hơn hoạt động kinh doanh của ngân hàng có tính liên thông, bắc cầu với nhau và với các lĩnh vực khác trong toàn bộ nền kinh tế nhằm xây dựng hệ thống NHTM Việt Nam vững mạnh, cạnh tranh và hội nhập quốc tế một cách thông suốt.
Về phía quản lý của Ngân hàng Nhà nước cần phải xem các nội dung của hiệp ước Basel là công cụ chỉ dẫn, phương pháp tính toán, dữ liệu, dựa trên các đặc thù về con người, khẩu vị rủi ro của NHTM Việt Nam và danh mục tài sản mà các NHTM đang nắm giữ để đưa ra các quy định, hướng dẫn từng bước triển khai các nội dung hiệp ước Basel cho các ngân hàng thương mại. Đồng thời cần có lộ trình thời gian phù hợp nhằm phê chuẩn cho các ngân hàng thương mại Việt nam áp dụng và tuân thủ các nội dung theo hiệp ước Basel 2 và tiến đến là Basel 3 nhanh chóng khả thi và an toàn.
3.2.1.2. Hoàn thiện khung quản trị rủi ro tín dụng
Các NHTM cần xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tốt dựa trên chiến lược quản trị rủi ro thích hợp với môi trường kinh doanh, hệ thống quản trị rủi ro vừa cho phép chấp nhận mức độ rủi ro nói chung và đặc biệt là mức độ chấp nhận về rủi ro tín dụng vừa tạo thuận lợi trong kinh doanh phải được xây dựng dựa trên những đánh giá tổng thể về tình hình kinh doanh của NHTM, môi trường kinh tế vĩ mô, những kỳ vọng về phát triển trong tương lai của NHTM vừa đảm bảo trên cả hai phương diện là đo lường
rủi ro giao dịch tín dụng và rủi ro danh mục tín dụng. Việc hoàn thiện khung quản trị rủi ro tín dụng sẽ giúp cho NHTM xây dựng được chiến lược quản trị rủi ro tín dụng đúng hướng và phù hợp với thông lệ quốc tế, theo đó việc xây dựng và hoàn thiện khung quản trị rủi ro tín dụng tốt trước hết mỗi NHTM cần đảm bảo các yếu tố khung quản trị rủi ro của chính ngân hàng tốt nhất như sơ đồ dưới đây:
Khung quản trị rủi ro
Có thể bạn quan tâm!
- Hầu Hết Các Ngân Hàng Đã Xây Dựng Được Quy Trình Cấp Tín Dụng Chặt Chẽ,
- Nguyên Nhân Dẫn Đến Hạn Chế Trong Công Tác Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại .
- Định Hướng Hoàn Thiện Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Việt Nam Trong Thời Gian Tới
- Hoàn Thiện Các Yêu Cầu Về Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Hoàn Thiện Các Phương Thức Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng
- Thực Hiện Phân Loại Nợ Và Trích Lập Dự Phòng Rủi Ro Đầy Đủ Và Chính Xác Phản Ánh Đúng Tình Trạng Nợ Của Mỗi Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.
Cơ sở hạ tầng thực hiện công việc quản trị rủi ro
Các bước tiến hành công việc quản trị rủi ro
Sơ đồ 3.1 : Các nhân tố về Khung quản trị rủi ro
Chiến lược QTRR
Triết lý QTRR
Nhận thức và văn hoá QTRR
Mức độ chấp nhận rủi ro
Cơ cấu tổ chức hoạt động QTRR
Khung QTRR
Nhận diện rủi ro
Đánh giá rủi ro
Chính sách QTRR Nhân sự thực hiện Công nghệ
Qui trình áp dụng
Phương pháp kiểm soát
và báo cáo
Quản lý rủi ro
Giám sát và phòng ngừa rủi ro
Cơ sở hạ tầng
Các bước quản lý rủi ro
Nguồn: theo nội dung Basel 2
3.2.1.3. Hoàn thiện các chính sách liên quan đến quản trị rủi ro tín dụng
Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là các nguyên tắc và tiêu chuẩn tín dụng cơ bản đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng và góp phần quản trị rủi ro tín dụng. Do đó, hoàn thiện hệ thống chính sách tín dụng tại mỗi ngân hàng thương mại là một giải
pháp vô cùng quan trọng để góp phần ngăn ngừa rủi ro tín dụng. Để đảm bảo chính sách tín dụng được sử dụng và vận dụng hữu ích vào hoạt động kinh doanh thì tại mỗi NHTM Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các nội dung sau:
Một là, chính sách tín dụng trước hết các NHTM phải đảm bảo thực hiện đúng các quy định liên quan đến chỉ đạo hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở đặc thù của hệ thống mỗi ngân hàng thương mại để chi tiết hóa các nội dung. Chính sách tín dụng được coi kim chỉ nam hành động cho tòan hệ thống thực hiện do đó cần chi tiết hóa giúp dễ dàng trong qúa trình triển khai thực hiện, cụ thể hoá các quy định về các đối tượng khách hàng cần tập trung cấp tín dụng, đối tượng khách hàng hạn chế và không cấp tín dụng, cơ cấu cấp tín dụng theo kỳ hạn, theo ngành, theo khu vực phù hợp cũng phải cụ thể.
Xây dựng chính sách tín dụng đúng, đầy đủ, phù hợp sẽ giúp cho việc phát triển hoạt động tín dụng, kiểm soát rủi ro tín dụng đi đúng định hướng và trong tầm kiểm soát. Thông qua các nội dung và định hướng chính sách tín dụng, hoạt động tín dụng được điều tiết từ định hướng phát triển, chính sách ứng xử đối với khách hàng đến các bước thực hiện nghiệp vụ tín dụng, theo đó chính sách tín dụng phải quy định và chỉ ra trách nhiệm của từng người, từng bộ phận liên quan đến hoạt động thẩm định cấp tín dụng và hoạt động giám sát sau khi cấp tín dụng của NHTM.
Việc xây dựng chính sách tín dụng phải đảm bảo đầy đủ và phù hợp với quy định những nguyên tắc chung và cơ bản nhất của hoạt động tín dụng nhằm thống nhất hoạt động cấp tín dụng đối với các tổ chức và cá nhân trong biên độ rủi ro hợp lý. Chính sách tín dụng phải được xây dựng trên những cơ sở nhất định theo các quy định của pháp luật, các qui định của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động tín dụng; định hướng chiến lược dài hạn của ngân hàng; phương châm kinh doanh đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
Hai là, Chính sách tín dụng cần mang tính dài hạn đón đầu được những thay đổi về tình hình kinh tế - tài chính; chính sách tín dụng cần đưa ra các công cụ để lượng hóa rủi ro cũng như cảnh báo rủi ro cụ thể nhằm giúp cán bộ tín dụng có thể nhận diện sớm rủi ro và đưa ra biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Ba là, Xây dựng chính sách tín dụng đúng, đầy đủ, phù hợp sẽ giúp cho việc phát triển hoạt động tín dụng, kiểm soát rủi ro tín dụng đi đúng định hướng và trong tầm kiểm soát. Thông qua các nội dung và định hướng chính sách tín dụng, hoạt động tín dụng được điều tiết từ định hướng phát triển, chính sách ứng xử đối với khách hàng đến các bước thực hiện nghiệp vụ tín dụng, theo đó chính sách tín dụng phải quy định và chỉ ra trách nhiệm của từng người, từng bộ phận liên quan đến hoạt động thẩm định cấp tín dụng và hoạt động giám sát sau khi cấp tín dụng của NHTM.
Việc xây dựng chính sách tín dụng phải đảm bảo đầy đủ và phù hợp với quy định những nguyên tắc chung và cơ bản nhất của hoạt động tín dụng nhằm thống nhất hoạt động cấp tín dụng đối với các tổ chức và cá nhân trong biên độ rủi ro hợp lý. Chính sách tín dụng phải được xây dựng trên những cơ sở nhất định theo các quy định của pháp luật, các qui định của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động tín dụng; định hướng chiến lược dài hạn của ngân hàng; phương châm kinh doanh đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, mỗi một ngân hàng cần phải có một chính sách tín dụng khác nhau phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh và chiến lược phát triển của ngân hàng thương mại mình dựa trên điều kiện thị trường, môi trường chính sách vĩ mô và đồng thời phải có những nội dung cơ bản sau:
Phân cấp quản lý ưu tiên khách hàng và đối tượng khách hàng theo từng vùng địa lý theo chiến lược của ngân hàng. Quy định rõ ràng những trường hợp khuyến khích cho vay, hạn chế cho vay, thận trọng trong cho vay và không cho vay.
Xây dựng một chính sách tín dụng an toàn, hiệu quả và toàn diện với một hoặc một số nhóm khách hàng. Để ra quyết định quan hệ tín dụng đối với một đối tượng khách hàng, ngân hàng phải phân tích tình hình khách hàng một cách toàn diện. Phải căn cứ vào danh mục tín dụng ngân hàng: loại tín dụng, kỳ hạn tín dụng, độ lớn tín dụng và chất lượng tín dụng.
Quy trình xử lý công việc, phân cấp chịu trách nhiệm trong công việc và báo cáo thông tin trong nội bộ các bộ phận có chức năng cấp tín dụng.
Quy trình tiếp nhận, kiểm tra và ra quyết định đối với các nhu cầu vay vốn của khách hàng. Quy trình thẩm định phải đảm bảo tính khoa học đồng thời hạn chế được rủi ro.
Danh mục các loại tài sản có thể chấp nhận làm tài sản đảm bảo và những loại tài sản không được ngân hàng chấp nhận làm tài sản đảm bảo.
Đồng thời, chính sách tín dụng phải đạt được các mục tiêu:
Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định hoạt động tín dụng của NHNN, đồng thời phải được xây dựng dựa trên sự phân tích, đánh giá, dự báo tình hình kinh tế - xã hội để xây dựng những cơ cấu tín dụng hợp lý, mức giới hạn cho vay, thị trường hướng tới
Các khoản vay phải phù hợp và có khả năng thu hồi cao nhất
Tạo ra các khoản đầu tư vốn với mức sinh lời cao và rủi ro thấp.
Khuyến khích mở rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu của thị trường, sản phẩm cho
vay, mục đích sử dụng vốn
Phải xác lập được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp phê duyệt, cấp
quản lý điều hành trong hoạt động tín dụng.
Có sự phân công, quản lý, kiểm tra chéo và phối hợp giữa các bộ phận phòng ban trong điều hành và kiểm soát hoạt động tín dụng, đồng thời phải phù hợp với khả năng và trình độ của cán bộ tín dụng đảm nhận trong từng khâu nghiệp vụ.
Bốn là, đẩy mạnh công tác giám sát và thực hiện đúng chính sách tín dụng ban hành. Công tác giám sát việc thực hiện chính sách tín dụng không chỉ dừng lại ở kiểm soát giới hạn quy mô tín dụng, kiểm soát các chỉ đạo cho vay bằng ngoại tệ mà cần đẩy mạnh kiểm soát các chính sách tín dụng liên quan đến ngành nghề, đối tượng cho vay nhằm kiểm soát tốt danh mục tín dụng giải ngân.
Để đạt được các mục tiêu này, chính sách tín dụng cần phải mang tính linh hoạt, mềm dẻo và được cập nhật thường xuyên để phản ánh môi trường hiện tại và xu thế phát triển của nền kinh tế.
Chính sách giới hạn tín dụng
Bên cạnh hoàn thiện chính sách tín dụng, các ngân hàng còn phải hoàn thiện chính sách quy định giới hạn tín dụng nhằm tránh tập trung vốn quá nhiều cho một số
ít khách hàng/nhóm khách hàng/các đối tượng được ưu đãi, thêm vào đó các ngân hàng thương mại cũng cần phải xây dựng các giới hạn cấp tín dụng theo ngành/lĩnh vực kinh tế, hoặc theo khu vực địa lý, tránh tình trạng đầu tư tín dụng tràn lan, thiếu kiểm soát ở một số ngành như kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán hoặc cho vay để sở hữu chéo, thâu tóm các NHTM khác dưới các hình thức dùng cổ phiếu để thế chấp cho cổ phiếu dẫn đến hậu quả nợ xấu nặng nề như giai đọan những năm trước đây. Để có cơ sở giám sát tốt các biểu hiện của tập trung tín dụng, chính sách giới hạn tín dụng cũng cần xây dựng nội dung phân cấp/ ủy quyền hạn mức tín dụng phù hợp cho hội đồng tín dụng, ủy ban quản lý rủi ro, các chi nhánh/phòng giao dịch của ngân hàng dựa trên tiêu chí năng lực quản trị của các cấp có tham gia vào qui trình cấp tín dụng và quản trị tín dụng.
Chính sách dự phòng rủi ro tín dụng
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD, tất cả các TCTD hoạt động tại Việt Nam (trừ Ngân hàng Chính sách xã hội) phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, khác với các quy định trước đây, Quyết định 493 cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được áp dụng chính sách trích lập dự phòng của ngân hàng nước ngoài, nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản. Mục đích của việc sử dụng dự phòng là để bù đắp tổn thất đối với các khoản nợ của TCTD. Dự phòng rủi ro chỉ tính theo dư nợ gốc của khách hàng và được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Trên thực tế, việc thiết lập quỹ dự phòng được các NHTM thực hiện tương đối đầy đủ nhưng còn mang tính thủ công và phụ thuộc rất nhiều vào việc đánh giá của TCTD đó đối với mức độ rủi ro của khoản vay, vì vậy việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro phải được thực hiện một cách tự động theo các chuẩn mực về định tính hoặc định lượng được qui định trong các điều 6 và điều 7 của quyết định 493 một cách triệt để và nghiêm túc.
Ngoài ra, bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động
kinh doanh các rủi ro nên cần phải xây dựng lộ trình áp dụng việc trích lập dự phòng
vượt ra ngoài khuôn khổ của quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN đó là bên cạnh việc trích lập dự phòng chung đối với các nhóm nợ từ nhóm 1-4 và trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ từ nhóm 2-5 thì cần xây dựng các khoản mục /doanh mục đầu tư có rủi ro và tiến hành trích lập dự phòng đối với các khoản mục/danh mục đầu tư có rủi ro theo tỷ lệ tương ứng với mức rủi ro của các khoản mục/ danh mục đầu tư này.
3.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện kỹ thuật quản lý rủi ro tín dụng
3.2.2.1. Lựa chọn mô hình quản trị rủi ro tín dụng an toàn, khoa học, dễ vận hành, dễ kiểm tra
Các ngân hàng thương mại Việt Nam nên xây dựng và vận hành mô hình quản lý rủi ro trong hoạt động nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng theo ba tuyến phòng vệ và đảm bảo luôn có sự kiểm tra, giám sát chéo lẫn nhau. Đồng thời mô hình này phải phát huy được các đặc điểm quan trọng như sau:
Hội đồng quản trị phải giám sát công tác quản trị rủi ro hoạt động, quản trị rủi
ro tín dụng một cách tách biệt với Ban điều hành.
Công tác quản trị rủi ro hoạt động, quản trị rủi ro tín dụng phải đảm bảo phát
huy hiệu quả hoạt động của ba tuyến phòng vệ. Theo đó:
Tuyến phòng vệ thứ 1: Bản thân các đơn vị kinh doanh (Trung tâm kinh doanh, chi nhánh, phòng giao dịch) có trách nhiệm quản lý rủi ro trong phạm vi đơn vị kinh doanh theo các chuẩn mực, qui định do hội sở ban hành.
Tuyến phòng vệ thứ 2: Các khối, phòng, ban được phân công thực hiện việc giám sát rủi ro của toàn ngân hàng tiến hành quản lý rủi ro tập trung và độc lập có trách nhiệm phát hiện các dấu hiệu rủi ro và các rủi ro tiềm ẩn, đồng thời duy trì và giám sát quản trị rủi ro toàn ngân hàng một cách thường xuyên và liên tục.
Tuyến phòng vệ thứ 3: Ban kiểm soát của ngân hàng với bộ phận trực thuộc là kiểm toán nội bộ hoạt động độc lập, giám sát đảm bảo tính tuân thủ với chiến lược, chính sách và các quy định quản trị rủi ro đã đặt ra. Xây dựng và đề xuất các thay đổi về hoạt động kiểm tra giám sát để ngân hàng vận hành phù hợp các xu thế thay đổi về chính sách, pháp luật.