2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong công tác quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại.
2.3.3.1. Nhóm nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do một số nhà quản trị ngân hàng cấp cao nhận thức chưa đầy đủ, chạy theo lợi ích trước mắt làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản trị rủi ro
Trong thời gian qua, trong lĩnh vực cho vay đầu tư tài chính, góp vốn vào các doanh nghiệp, nhiều ngân hàng cũng có các sai sót về phạm vi, mục đích, giới hạn cho vay theo qui định của Ngân hàng Nhà nước hoặc ủy thác cho nhiều công ty con thực hiện các nghiệp vụ chưa được cấp phép theo qui định của pháp luật. Một số nhà quản trị ngân hàng có những vi phạm cụ thể như cho vay vượt giới hạn quy định, cố ý lách luật, tập trung tín dụng quá mức cho một số ít khách hàng cho người thân và các thành viên của Hội đồng quản trị (trường hợp Sacombank và gia đình ông Đặng Văn Thành chủ tịch Hội đồng quản trị). Cũng có hiện tượng Ban kiểm soát, Ban điều hành và các cổ đông lớn của ngân hàng chi phối hoạt động tín dụng theo hướng sử dụng vốn của ngân hàng vào mục đích riêng. Điều 126, điều 127 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã qui định những trường hợp không được cho vay và hạn chế cho vay, tuy nhiên, thực tế các qui định này hoàn toàn không có tác dụng do các NHTM chấp thuận cho vay các công ty được Hội đồng sáng lập lập ra để hợp thức hoạt động này. Bên cạnh đó hiện tượng sở hữu chéo, đầu tư ngoài ngành của các ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước diễn ra phổ biến đã dẫn tới các khoản cho vay, đầu tư lòng vòng, bất chấp quy định, gây hậu quả nghiêm trọng. Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, sở hữu chéo dẫn tới rủi ro nhóm ngân hàng liên quan và rủi ro liên thông giữa các thị trường bất động sản, chứng khoán do các ngân hàng Việt Nam đều liên quan tới kinh doanh bất động sản, chứng khoán. Tất cả những hiện tượng đó cho thấy nhận thức chưa đầy đủ về công tác quản trị rủi ro tín dụng tồn tại ngay trong ý thức của một số nhà quản trị ngân hàng Việt Nam.
Thứ hai, do năng lực quản trị của ngân hàng thương mại còn yếu kém cộng thêm áp lực cạnh tranh để phát triển thị phần tín dụng dẫn đến nguy cơ giảm nhẹ các chuẩn mực theo yêu cầu quản trị rủi ro tín dụng
Giai đoạn 2007 đến 2011 là những năm tăng trưởng tín dụng nóng dẫn đến lạm phát bùng nổ năm 2010 lên tới hơn 18%. Giai đoạn 2012 và 2013 NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thông qua kênh lãi suất (trần lãi suất huy động) và thông qua kênh tín dụng (hạn mức tăng trưởng tín dụng và hạn mức tín dụng thắt chặt cho một số ngành không khuyến khích) đã chặn đà tốc độ tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, năm 2012 - 2013 lại là giai đọan bắt đầu bùng nổ nợ quá hạn do hậu quả của việc tập trung rủi ro trong đầu tư tín dụng của các năm trước đó, khi các NHTM cạnh tranh tăng trưởng thị phần tín dụng nhanh quá mức kiểm soát, nhiều khoản vay được phê duyệt dựa theo nhu cầu khách hàng hơn là dựa trên các nguyên tắc cấp tín dụng, giao khóan lương thưởng theo chỉ tiêu dư nợ cho cán bộ tín dụng. Đồng thời, sự tuân thủ quy trình cấp tín dụng tại một số NHTM có những thời điểm chưa thực sự tuân thủ nghiêm túc, một số khoản vay có giá trị lớn được phê duyệt để đầu tư chéo, ngoài ngành theo chỉ đạo của cấp lãnh đạo hoặc của cổ đông.
Nhiều ngân hàng nhỏ, yếu năng lực cạnh tranh buộc phải xem việc định giá tài sản thế chấp cao, đơn giản hóa thủ tục và rút ngắn thời gian thẩm định, cho vay là phương thức cạnh tranh. Việc phá lệ của các ngân hàng nhỏ có tác động đến các ngân hàng lớn do hiệu ứng từ các đánh giá, so sánh của khách hàng lớn, khách hàng truyền thống của ngân hàng lớn. Từ nhiệm vụ đánh bật các ngân hàng nhỏ ra khỏi thị phần của mình làm cho việc thẩm định trở nên sơ sài, chiếu lệ, định giá tài sản theo giá thị trường, hậu quả là, khách hàng được cấp tín dụng theo yêu cầu hơn là theo nhu cầu nên chỉ cần khách hàng gặp một sự cố nào đó như bị người mua chiếm dụng vốn, các khoản phải thu có vấn đề, mua bán bất động sản trong giai đoạn bị giảm giá nên giá trị tài sản không còn bảo đảm đủ cho khoản vay dẫn đến khoản nợ bị trễ hoặc quá hạn. Khi nợ quá hạn xảy ra, các ngân hàng lại tìm cách đảo nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, chuyển nhóm nợ và trích lập dự phòng rủi ro sai qui định khiến khả năng thu hồi càng khó khăn, kéo dài.
Ngoài ra, áp lực lợi nhuận của cổ đông đối với Ban điều hành cũng làm cho
Có thể bạn quan tâm!
- Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Thuộc Nhóm 3
- Đánh Giá Công Tác Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại
- Hầu Hết Các Ngân Hàng Đã Xây Dựng Được Quy Trình Cấp Tín Dụng Chặt Chẽ,
- Định Hướng Hoàn Thiện Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Việt Nam Trong Thời Gian Tới
- Hoàn Thiện Các Chính Sách Liên Quan Đến Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Hoàn Thiện Các Yêu Cầu Về Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.
Ban điều hành của nhiều ngân hàng đẩy nhanh quá trình thực hiện chỉ tiêu kinh doanh mà phớt lờ các cảnh báo rủi ro. Ở mức độ nào đó, các ngân hàng đều nhận thức được rủi ro của các khoản vay có dấu hiệu chưa tuân thủ các qui chế cho vay mà đặc biệt là có yếu tố đầu cơ, tuy nhiên hầu hết các ngân hàng vì mục tiêu tăng lợi nhuận và thị phần nhưng lại không có nhiều sự lựa chọn trong việc đa dạng hóa danh mục cho vay nên bất chấp tăng trưởng dư nợ theo chỉ tiêu kinh doanh được cổ đông xác lập từ đầu năm tài chính.
Thứ ba, do trình độ của cán bộ tín dụng hạn chế không đáp ứng được yêu
cầu
Con người là yếu tố quan trọng trong mọi hành động, cụ thể trong hoạt động cấp
tín dụng của ngân hàng thương mại yếu tố cán bộ tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng thể hiện qua các nhân tố như trình độ chuyên môn, hiểu biết về các kiến thức kinh doanh ngân hàng, hoạt động kinh doanh của khách hàng, kiến thức pháp luật, trình độ thẩm định khách hàng, thẩm định dự án. Nếu các nhân tố này bị hạn chế thì dễ dẫn đến ngân hàng không kiểm soát được rủi ro tín dụng. Ngoài ra, cũng có tình trạng cán bộ tín dụng thiếu khả năng, kỹ năng dự báo kinh tế, thị trường, phân tích tình hình tài chính, phi tài chính của doanh nghiệp. Ngoài ra, trong giai đoạn 2003- 2013, tốc độ phát triển mạng lưới của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam được đánh giá là rất nhanh chính vì thế chất lượng nguồn nhân lực ở hầu hết các NHTM còn chưa đồng đều, một số chưa đáp ứng được với đòi hỏi của thời kỳ mới.
Thứ tư, do yếu tố đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng chưa vững
Các biểu hiện cụ thể như không chấp hành đúng quy trình cho vay, thông đồng với khách hàng cố ý làm trái rút tiền ngân hàng…Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên rủi ro tín dụng trong thời gian qua. Khi cho vay do cán bộ ngân hàng không thực hiện đúng quy trình cho vay bỏ qua các bước cần thiết, thu thập thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác, cho vay dựa trên cảm tính, không dựa trên tài liệu chứng minh. Vì vậy việc ra quyết định cho vay không chính xác, cho vay khi các điều kiện chưa đầy đủ, khả năng rủi ro xảy ra rất cao và việc khả năng thu hồi vốn rất khó. Cụ thể khi cho vay, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm đủ điều kiện pháp lý, có đầy đủ giấy tờ chứng minh quyền sở hữu và phải đăng ký
giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên cán bộ tín dụng đề xuất cho vay khi điều kiện pháp lý chưa đầy đủ, vì vậy khi khách hàng không trả nợ, ngân hàng không có đủ cơ sở, điều kiện phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi vốn. Cũng có các trường hợp cán bộ ngân hàng thông đồng với khách hàng giả mạo giấy tờ/hồ sơ, đưa các thông tin không trung thực vào hồ sơ để vay tiền ngân hàng sau đó không trả được nợ cho ngân hàng. Trường hợp khác do cán bộ thực hiện nghiệp vụ đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích ngân hàng, dẫn đến cấu kết với khách hàng để hợp thức hồ sơ vay vốn, tất yếu xảy ra rủi ro.
2.3.3.2. Nhóm nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do ảnh hưởng từ môi trường kinh tế suy thoái, bất ổn.
Những biến động của nền kinh tế thị trường như: lạm phát, biến động tỷ giá, kinh tế suy thoái, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp kinh doanh, trong đó có khách hàng vay vốn của ngân hàng. Từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng cho ngân hàng, gây ra rủi ro tín dụng ở các mức độ khác nhau cho ngân hàng tuỳ thuộc vào mức độ triển khai các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
Về kinh tế vĩ mô, trong thời gian dài, nền kinh tế vẫn chú trọng phát triển theo chiều rộng, tín dụng tăng trưởng quá nóng, trung bình hơn 29% trong 10 năm qua, có những năm trên 33%, cá biệt có NHTM cổ phần có năm tăng trên 50% nên dễ phát sinh vấn đề nợ xấu đồng thời khó kiểm soát được rủi ro tín dụng.
Ngoài ra, thị trường bất động sản trầm lắng cũng là một nguyên nhân chính gây ra nợ xấu bất động sản tăng cao. Do tác động khủng hoảng tài chính cùng với chính sách hạn chế tín dụng cho các lĩnh vực phi sản xuất, các dòng vốn chảy vào lĩnh vực bất động sản (bao gồm cả tín dụng bất động sản và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều suy giảm mạnh khiến giao dịch trên thị trường này khá ít ỏi, bất chấp giá mặt hàng này đã giảm tương đối mạnh, số lượng hàng tồn bất động sản ngày càng lớn, nhiều dự án bị tạm ngưng do thiếu vốn, thị trường ảm đạm kéo dài khiến nhiều doanh nghiệp bất động sản rơi vào tình trạng thua lỗ, không có tiền trả nợ ngân hàng.
Thứ hai, xuất phát từ cơ chế chính sách pháp luật điều chỉnh hoạt động
ngân hàng chưa theo kịp được xu hướng quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế
Trong giai đọan 2009-2013 cũng có thể thấy sự lúng túng, bất cập trong các văn bản pháp lý cao nhất chi phối hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Đơn cử như Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 (khoản 5 điều 38) có những quy định không rõ ràng, lẫn lộn về chức năng và nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ. “Ban kiểm soát có bộ phận giúp việc và được sử dụng hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng để thực hiện các nhiệm vụ của mình” trong khi khoản 2 cũng điều 38 lại quy định “Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động tài chính... thực hiện kiểm toán nội bộ hoạt động từng thời kỳ”. Điều này có thể là nguyên nhân dẫn đến việc hiểu chưa chính xác về vai trò của kiểm soát nội bộ với kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng, trong khi đây là hai nội dung quan trọng trong quản trị rủi ro tại bất cứ một ngân hàng thương mại nào. Những thiếu sót trên cho đến năm 2011 mới được khắc phục trong Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (hiệu lực từ 1/1/2011).
Giai đọan 2006-2007 là thời kỳ tăng trưởng nóng về tín dụng, bắt nguồn từ việc tập trung đầu tư tín dụng vào một số ngành nhạy cảm với biến động của nền kinh tế (bất động sản, chứng khoán), tiềm ẩn những bất ổn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên sau giai đọan này và cho đến nay, NHNN vẫn chưa có những văn bản cụ thể giới hạn đầu tư tín dụng theo các ngành (ngoại trừ quy định khống chế dư nợ vay phi sản xuất theo Thông tư 01 năm 2011) và trong các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng/TCTD cũng không đề cập đến các giới hạn hạn tín dụng theo ngành nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng tập trung
Hướng đến mục tiêu quản trị các TCTD trong nước theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là quy tắc Basel với các Hiệp ước Basel 1, Basel 2 và Basel 3, trong thời gian qua NHNN đã có những quan tâm nhất định đến việc xây dựng các văn bản pháp quy hướng theo tinh thần của Basel (như thông tư 02 mới đây có nhiều cải tiến trên nền của quyết định 493 theo tinh thần của Hiệp ước Basel 1). Tuy nhiên tiến trình cải tiến khá chậm chạp, đến nay vẫn chưa được xác định lộ trình, chính vì thế để đáp ứng được yêu cầu hội nhập rất có thể các chính sách quản lý của NHNN sẽ được xây dựng và
thay đổi gấp rút để đáp ứng kịp tiến độ về mặt thời gian dẫn đến các NHTM gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, kinh nghiệm của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại còn nhiều hạn chế
Ngân hàng nhà nước với vai trò là cơ quan quản lý đối với hoạt động của các
TCTD/ ngân hàng thương mại thời gian qua hoạt động chưa thực sự hiệu quả, cụ thể:
+ Đối với hoạt động thanh tra tính tuân thủ nhằm phát hiện sai sót vi phạm của các TCTD còn hạn chế do năng lực và số lượng cán bộ Thanh tra NHNN không đủ để tiến hành thanh tra thường xuyên các tổ chức tín dụng mà chỉ thực hiện định kỳ. Cùng với đó, trong một thời gian dài, các chế tài xử lý của NHNN chưa phát huy được hiệu quả. Tình trạng nhiều NHTM cổ phần đầu tư số vốn quá lớn vào các công ty sân sau của các thành viên trong Hội đồng quản trị, tình trạng sở hữu chéo, tình trạng thành lập công ty của một số cá nhân phát hành trái phiếu mà người mua chính là NHTM cổ phần chậm được phát hiện và xử lý.
+ Hoạt động giám sát từ xa nhằm cảnh báo sớm rủi ro tín dụng, hỗ trợ cho thanh tra tại chỗ chưa thực sự đạt hiệu quả, phụ thuộc nhiều vào nguồn số liệu do các ngân hàng/ TCTD báo cáo lên. Về công cụ giám sát, chưa xây dựng được bộ chỉ tiêu giám sát cảnh báo rủi ro đối với hoạt động tín dụng phù hợp với thông lệ quốc tế (các nguyên tắc giám sát của Ủy ban Basel).
+ Sự phối hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đối với một ngân hàng/ TCTD chưa đồng bộ, vửa gây lãng phí nhân lực, lại vừa giảm tính hiệu quả vì chưa đánh giá đúng , chính xác mức độ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của ngân hàng
/TCTD.
Thứ tư, vai trò hỗ trợ của Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng (CIC)
đối với các ngân hàng chưa thực sự hiệu quả
Trong tình trạng cạnh tranh gay gắt như hiện nay giữa các ngân hàng thương mại thì vai trò trung tâm thông tin tín dụng là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có quyết định cho vay hợp lý. Nhưng trên thực tế thì hiện nay dữ liệu của Trung tâm thông tin tín dụng chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa cập nhật được và xử lý kịp thời, các nội dung thông tin chỉ cho biết vay
ở đâu, nhóm nợ như thế nào nhưng không nếu rõ nguyên nhân và bản chất của nhóm nợ xấu là gì. Có trường hợp, khách hàng vay có nhóm nợ xấu nhưng không phân loại nợ theo qui định nên thông tin cung cấp cho Trung tâm tín dụng vẫn ở trạng thái là nợ đủ tiêu chuẩn.
Thứ năm, do môi trường pháp lý và sự yếu kém của cơ quan pháp luật địa phương ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác xử lý nợ nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng
Môi trường pháp lý có ảnh hưởng lớn đến việc hạn chế rủi ro tín dụng. Nếu môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ sẽ góp phần tích cực vào hiệu quả của các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu môi trường pháp lý không đồng bộ, không phù hợp với xu thế phát triển kinh tế hiện tại sẽ tạo môi trường pháp lý cạnh tranh không lành mạnh, tạo ra nhiều kẽ hở để các doanh nghiệp làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo chính Ngân hàng. Khi đó việc triển khai các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại sẽ gặp khó khăn thậm chí thực thi sẽ không có tác dụng.
Cụ thể thời gian qua, các Ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn trong xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ xấu mà nguyên nhân không nhỏ là do bất cập về mặt pháp lý. Một trong những mối quan tâm lớn nhất hiện nay của các Ngân hàng thương mại đó là giảm tỷ lệ nợ xấu, trong đó giải pháp quan trọng hàng đầu là xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của khách hàng không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên xử lý tài sản đảm bảo tiền vay thì đang gặp phải hàng loạt khó khăn như
Sự bất cập về pháp lý trong xử lý tài sản đảm bảo.
Khách hàng bất hợp tác trong việc chuyển nhượng tài sản thế chấp
Cơ quan thẩm quyền thi hành án chậm trễ trong việc thực thi bản án
Thị trường giao dịch bất động sản trầm lắng
Nghị định 163/2006/NĐ-Chính phủ (29/12/2006) về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-Chính phủ (22/2/2012) về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 163, đã quy định tương đối đầy đủ những điều khoản nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là trong các tranh chấp dân sự giữa ngân hàng và người vay, nhưng thực tế không dễ bán được tài sản bảo đảm, thu hồi nợ của
những khách hàng có nợ quá hạn đặc biệt là khách hàng bất hợp tác do việc chuyển nhượng tài sản đảm bảo cần phải tuân theo các qui định về hợp đồng chuyển nhượng tài sản đảm bảo, theo đó đối với tài sản bảo đảm là bất động sản (đất, tài sản trên đất...) thì các tài sản này đòi hỏi phải đăng ký quyền sở hữu và liên quan đến phạm vi điều chỉnh nhiều bộ luật khác. Như vậy, giả thiết khách hàng cố tình chây ỳ không chịu ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ngân hàng thì không bao giờ ngân hàng bán được để thu hồi nợ.
Theo số liệu của Tổng cục trưởng Tổng cục thi hành án dân sự, từ ngày 1/10/2011 đến 31/3/2012, các cơ quan thi hành án trong toàn quốc đã thi hành xong
148.389 bản án trên tổng số 274.231 vụ việc ( bản án) có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 54,11%, thấp hơn 3,94% so với cùng kỳ năm 2011. Tình trạng đó cho thấy các bản án dân sự chờ đợi để được thi hành trong xử lý tài sản đảm bảo tiền vay là cả một sự nan giải, mất nhiều thời gian. Trong khi đó, giá trị TSĐB các khoản nợ xấu sẽ giảm xuống qua thời gian do bị xuống cấp, phát sinh thêm chi phí trông coi, bảo vệ, thuê mướn khác, giá cả thị trường ngày càng giảm.
Để đẩy nhanh việc thu hồi nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước thành lập công ty VAMC để thực thi việc mua bán nợ xấu của NHTM. Tuy nhiên, phương án này vẫn chưa thực sự có hiệu quả, do việc mua bán nợ xấu và chuyển giao tài sản đảm bảo giữa NHTM và VAMC chỉ mang tính hình thức. Thẩm quyền trực tiếp bán tài sản đảm bảo của VAMC chưa được luật pháp cho phép và cuối cùng VAMC chuyển giao quyền thu nợ cho NHTM đã bán nợ xấu trước đó cho chính mình như vậy quy trình bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ xấu của các NHTM vẫn như cũ.
+ Ngoài các nguyên nhân kể ra trên đây còn có nguyên nhân khác xuất phát từ phía khách hàng quan hệ tín dụng với ngân hàng, chẳng hạn như tình trạng khách hàng vay vốn tại nhiều TCTD và thực hiện thế chấp tài sản đảm bảo của các khoản vay cho nhiều ngân hàng cùng lúc, khi có sự cố xảy ra các ngân hàng rơi vào các rủi ro về tranh chấp tài sản. Trường hợp khách hàng cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều, tuy nhiên, khi vụ việc phát sinh để lại hậu quả hết sức nặng nề và khó xử lý... Những hiện tượng trên dù không nhiều, không phổ biến ở nhiều ngân hàng