Diễn Biến Lãi Suất Tiền Gửi Và Lãi Suất Cho Vay Của Lào Giai Đoạn 2003 - 2005 (%)


CSTT nới lỏng thông qua tài trợ cho thâm hụt ngân sách và mua lại lượng tín phiếu đã khiến cung tiền tăng mạnh. Tương tự như giai đoạn trước đó, các giải pháp mà Ngân hàng nước CHDCND Lào áp dụng là phát hành tín phiếu NHTW, và áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, điểm thay đổi tích cực trong giai đoạn này là việc Ngân hàng nước CHDCND Lào đã không tăng mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc (qua đó hạn chế rủi ro thanh khoản đối với hệ thống ngân hàng đang trong giai đoạn tái cơ cấu), tập trung vào giải quyết chất lượng tín dụng, chỉ áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng đối với các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước (giảm phạm vi sử dụng các công cụ mang tính hành chính cao)… Dù vậy, độ trễ tác động của CSTT vẫn ở mức cao như đã chỉ ra ở trên, xuất phát từ việc dự báo nguy cơ lạm phát kém, khả năng truyền dẫn CSTT thấp do thị trường liên ngân hàng và thị trường chứng khoán chậm phát triển, hệ thống TCTD trong giai đoạn tái cơ cấu do tồn tại nhiều yếu kém…

Bảng 3.2: Diễn biến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của Lào giai đoạn 2003 - 2005 (%)


2003

2004

2005

2003

2004

2005

2003

2004

2005

Lãi suất tiền gửi

Tiền gửi nội tệ

Tiền gửi ngoại tệ THB

Tiền gửi ngoại tệ USD

Tiền gửi không kỳ hạn

0

0

0

0

0

0

0

0

0

Tiền gửi tiết kiệm

4-13

4-8


0,25-0,75

0,25-0,5

0,2-0,75

0,25-0,75

0,13-0,5

0,13-0,75

Tiền gửi có kỳ hạn










3 tháng

6-16

8-15

5-10

0,5-1,25

0,25-0,75

0,25-0,75

0,25-1,25

0,13-0,6

0,13-0,25

6 tháng

8-18

10-16

6-12

0,5-1,5

0,25-1

0,25-1,5

0,5-1,5

0,13-0,8

0,13-1,5

12 tháng

10-21

10-16

7-14

0,5-2

0,25-1,25

0,25-2

0,75-2

0,13-1

0,13-2

>12 tháng

12-22

16-17

9-16

1,5-2

1,5%

1,5-2

1,5-3

0,7

1-1,5

Lãi suất cho vay

Vay nội tệ

Vay ngoại tệ THB

Vay ngoại tệ USD

Nông lâm nghiệp

19-22



6,5-18



6-14



Công nghiệp & thủ công

22-24



6,5-18



6-14



Xây dựng và vận tải

24-26



6,5-18



6-14



Thương mại & dịch vụ

20-27



6,5-18



6-14



Ngắn hạn


14-24

15,5-24


5-8

5-18


6-14

7,58-14

Trung hạn


16-26

15,5-26


7-18

7,88-18


7-16,5

8,75-14

Dài hạn


19-33

15,5-26


7,5-18

7,88-18


7,88-18,5

8,75-14

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

Nguồn: [56].

Năm 2005 là năm mà nền kinh tế Lào bị ảnh hưởng từ cú sốc bên ngoài sau khi ngày càng hội nhập hơn vào nền kinh tế thế giới. Ảnh hưởng rõ ràng nhất đối với nền kinh tế trong nước là giá dầu và giá lương thực trên thế giới tăng cao kết


hợp với sự biến động của tỷ giá. Do lạm phát tăng lên chủ yếu bắt nguồn từ cú sốc phía cung (mặc dù lạm phát của Lào đã xuống thấp nhưng ba cấu thành quan trọng trong chỉ số giá tiêu dùng đã tăng lên đáng kể là thực thẩm (tăng 11,97%), quần áo (tăng 8,98%), và giao thông, liên lạc (tăng 8,45%). Ngoài ra, đồng Kip bị mất giá so với đồng USD trong nửa đầu năm 2004 và nửa đầu năm 2005 cũng đóng góp vào việc làm cho tỷ lệ lạm phát gia tăng) nên giải pháp CSTT mà Ngân hàng nước CHDCND Lào thực hiện là hạn chế kích thích tổng cầu quá mức đồng thời duy trì tỷ giá ổn định. Ngân hàng nước CHDCND Lào đã tiến hành điều hành CSTT theo định hướng ổn định giá trị của đồng nội tệ và kiểm soát lượng cung tiền phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Cung tiền và tín dụng được điều chỉnh nhằm bảo đảm đủ vốn cho hoạt động kinh tế nhưng đồng thời kiểm soát tốt lạm phát có nguy cơ bùng nổ. Cụ thể, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã thực hiện các biện pháp sau [56, tr.16, 17]:

Chiết khấu các tín phiếu Kho bạc từ các NHTM gặp khó khăn thanh khoản và cung cấp các khoản vay tái cấp vốn ngắn hạn cho các NHTM dựa trên bảo đảm bằng tín phiếu Kho Bạc, thể hiện ở lượng tiền cơ sở tăng lên đáng kể trong năm 2005.

Duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức 8% đối với tiền gửi Kip và 15% đối với tiền gửi USD và THB.

Can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá trị của đồng Kip.

Khuyến khích các NHTM tham gia cho vay lẫn nhau nhằm hạn chế căng thẳng thanh khoản xảy ra trong hệ thống.

Phát triển thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường thứ cấp để tăng cường hiệu quả điều hành của CSTT.

Tăng cường huy động vốn từ nền kinh tế, đặc biệt là tiền gửi của Chính phủ, vừa tăng thanh khoản hệ thống, vừa hạn chế lượng cung tiền tăng cao, tạo áp lực lên lạm phát.

Nhờ các biện pháp này, các chỉ tiêu tiền tệ được kiểm soát tốt hơn khi lượng tiền cơ sở và cung tiền năm 2005 tăng lần lượt 18% và 8,3% so với năm 2004. Mức lãi suất huy động và cho vay trong năm 2005 nhìn chung đều ở mức thấp hơn so với năm 2004 đã giúp Ngân hàng nước CHDCND Lào đạt được tốt hai mục tiêu của CSTT. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng dần lên mức 7,29% so với mức 6,88% năm 2004, trong khi lạm phát chỉ ở mức 8,78%.


Biểu đồ 3 11 Tăng trưởng tín dụng tiền cơ sở và cung tiền của Lào giai 1


Biểu đồ 3.11: Tăng trưởng tín dụng, tiền cơ sở, và cung tiền của Lào giai đoạn 2003 - 2005

Nguồn: [56].

Về cân bằng bên ngoài của Lào, cán cân thanh toán đã được cải thiện tương đối trong năm 2005, mặc dù nền kinh tế gặp phải những ảnh hưởng bất lợi từ các cú sốc bên ngoài. Sự tăng lên trong giá trị xuất khẩu khoáng sản đã giúp cân bằng sự sụt giảm của ngành may mặc và sự gia tăng của giá dầu. Nhập khẩu thiết bị cho nhà máy thủy điện Nam Theun 2 là một trong những nhân tố khiến thâm hụt cán cân vãng lai tăng lên mức 16% GDP, cho dù mức thâm hụt này được bù đắp bằng sự gia tăng đáng kể trong lượng vốn đầu tư từ nước ngoài. Mặc dù dự trữ ngoại hối diễn biến tương đối ổn định trong năm 2005, vào khoảng 230 triệu USD, tương đương 3 tháng nhập khẩu nhưng nợ nước ngoài ở mức khá cao, lên tới 80% GDP.

Bảng 3.3.: Tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 5 của CHDCND Lào

Chỉ tiêu

2001

2002

2003

2004

2005

Bình quân

Kế hoạch

Tăng trưởng kinh tế (%)

5.8

5.9

5.8

6.9

7.3

6.2

7-7.5

Tỷ lệ lạm phát (%)

7.5

15.2

12.6

8.7

8.8

10.6

<10

Thu ngân sách/GDP(%)

15.8

14.0

13.0

12.1

13.3

13.6

18

Thâm hụt ngân sách/GDP (%)

4.2

3.2

5.8

2.5

4.5

4.0

6

Tỷ giá Kip/USD

-15.5

-12.5

2.0

0.9

-3.5

-5.7

Ổn định

Nguồn: [53], [54], [55], [56].

Kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 5 cho thấy sự cải thiện trong việc tiến tới các mục tiêu đề ra của Chính phủ CHDCND Lào. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt được mục tiêu đề ra nhưng vẫn


cao hơn giai đoạn trước. Nguy cơ lạm phát đã dần được kiểm soát tốt hơn. Ngoài ra, các chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát cho thấy xu hướng tích cực và ổn định kể từ năm 2003 trở đi. Những hệ quả lâu dài của bất ổn kinh tế vĩ mô giai đoạn trước đây đã dần được kiểm soát và loại bỏ. Ổn định kinh tế vĩ mô đã góp phần giúp thị trường ngoại tệ trở nên ổn định hơn, chênh lệch giữa tỷ giá thị trường chính thức và phi chính thức giảm dần; dự trữ ngoại hối tăng từ mức 2,6 tuần nhập khẩu vào năm 2001 lên 12,8 tuần nhập khẩu vào năm 2005.

Đóng góp vào sự cải thiện này có nỗ lực của Ngân hàng nước CHDCND Lào trong công tác điều hành CSTT, đặc biệt là trong công tác kiểm soát và giảm tỷ lệ lạm phát. Việc xây dựng và thực thi CSTT ngày càng được củng cố trong quá trình triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 5. Tăng trưởng cung tiền bình quân 5 năm đạt 20%, huy động tiền gửi của hệ thống ngân hàng đạt 19,2%, bám sát mục tiêu đề ra, hệ thống tổ chức tín dụng đã được cơ cấu lại theo hướng lành mạnh hơn, mức độ linh hoạt trong điều hành tỷ giá được cải thiện giúp ổn định tỷ giá hơn nhiều so với giai đoạn trước.

3.2.2.3. Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010: Chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Chính phủ Lào nhận định trong giai đoạn thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 6 thì cải cách thương mại đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của khu vực tư nhân. Trong quá trình tiến tới thực hiện các cam kết khi tham gia vào AFTA, Chính phủ nước CHDCND Lào đã ký kết các hiệp định song phương nhằm phát triển hoạt động thương mại với Mỹ, đồng thời thực hiện các bước đầu tiên trong quá trình đàm phán chính thức tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là bước đi đúng đắn trong quá trình nền kinh tế Lào hội nhập hơn vào kinh tế tại khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra không ít thử thách cho nền kinh tế khi buộc phải nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và năng lực cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp trong nước, trong đó có cả các DNNN.

Để đóng góp vào tiến trình thực hiện của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm lần thứ 6 (2006-2010) với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 7,5-8%, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức một con số (bình quân ở mức 7%) và tỷ giá hối đoái ổn định, Ngân


hàng nước CHDCND Lào đã thiết lập mục tiêu hoạt động duy trì sự tăng trưởng của cung tiền không quá 18% thông qua việc giới hạn tăng trưởng lượng tiền cơ sở ở mức 14%, đảm bảo mức độ dự trữ ngoại hối tương đương với hơn bốn tháng nhập khẩu, tiếp tục đổi mới và tăng cường hệ thống ngân hàng hướng tới nền tài chính lành mạnh và hiện đại [57].

Trong năm 2006, hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã thực hiện các biện pháp nới lỏng CSTT như sau [57, tr.23]:

Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 8% xuống còn 5% đối với tiền gửi là đồng Kip.

Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 15% xuống còn 10% đối với tiền gửi ngoại tệ.

Khuyến khích hoạt động của thị trường liên ngân hàng, bao gồm cả giao dịch đồng Kip và ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản của hệ thống NHTM, hỗ trợ CSTK thông qua nghiệp vụ thị trường mở.

Khuyến khích hệ thống NHTM điều chỉnh lãi suất phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và mức lãi suất trên thế giới.

Tiến hành tái cấu trúc hoạt động của hệ thống NHTM để tăng cường hiệu quả truyền tải CSTT. Vốn của hệ thống NHTM Nhà nước đã được cấp bổ sung 350 tỷ Kip, trong khi các khoản nợ xấu được xử lý dứt khoát bởi các biện pháp sử dụng dự phòng hoặc xoá nợ, dự phòng cho các khoản nợ xấu còn lại được trích lập đầy đủ.

Thực hiện CSTT nới lỏng, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã để cung tiền tăng vượt quá mục tiêu đề ra, với tốc độ 30,3% trong năm 2006, xuất phát từ lượng tiền ngoại tệ chảy vào nền kinh tế thông qua các kênh [57, tr.16]:

Vốn đầu tư nước ngoài chảy vào thông qua hệ thống ngân hàng tăng lên mức 187 triệu USD, tăng 28 triệu USD so với năm 2005.

Xuất khẩu tăng trưởng mạnh, đặc biệt từ xuất khẩu khoáng sản, từ mức 553 triệu USD trong năm 2005 lên 882 triệu USD trong năm 2006.

Nguồn thu ngoại tệ từ du lịch tăng từ 140 triệu USD năm 2005 lên mức 150 triệu USD năm 2006.

Lượng ngoại tệ chảy vào nền kinh tế tăng mạnh là nguyên nhân dẫn đến đồng Kip tăng giá mạnh so với đồng USD. Tính đến cuối năm, đồng Kip đã lên giá 10,3% so với đồng USD.


Mặc dù cung tiền tăng cao, nhưng hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM không tăng trưởng mạnh mẽ mặc dù Ngân hàng nước CHDCND Lào thực hiện CSTT nới lỏng do hệ thống NHTM tiến hành tái câu cấu trong mục tiêu cải thiện hoạt động quản lý tín dụng. Tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức 4,6% so với năm 2005. Do vậy, năm 2006, mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế giảm nhẹ so với năm 2005. Dựa trên tiền đề này, sang các năm tiếp theo, Ngân hàng nước CHDCND Lào tiếp tục thực hiện CSTT nới lỏng cho các năm tiếp theo với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi mà tiềm lực phát triển vẫn ở mức cao.

Trong năm 2007, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn từ 20%/năm xuống còn 12%/ năm đối với đồng Kip và giảm tỷ lệ phòng ngừa rủi ro (risk-weighted reserve ratio) từ 3% đến 1% để hỗ trợ các NHTM giảm lãi suất của các khoản cho vay. Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện với giá trị 34 tỷ Kip để giải quyết thanh khoản ngắn hạn của các NHTM. Qua hàng loạt các công cụ CSTT trên, cung tiền tiếp tục tăng 38,72% so với năm 2006.



Biểu đồ 3.12: Tiền dự trữ, cung tiền hẹp, và cung tiền rộng của Lào giai đoạn 2006 - 2010

Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế, IMF.

Tương tự như năm 2006, cung tiền năm 2007 tăng lên một phần do sự tăng lên của tài sản có ngoại tệ ròng bao gồm nguồn vốn FDI thông qua hệ thống ngân hàng tăng 72,63%, xuất khẩu tăng 4,61% chủ yếu là từ xuất khẩu khoáng sản, nguồn thu từ du lịch tăng lên 189,42 triệu USD. Lượng tiền cơ sở năm 2007 đã tăng 58,82% so với năm 2006. Cả tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2007 đều lớn hơn năm trước. Tổng phương tiện thanh toán tuy tăng cao nhưng


lại phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của Lào do tiềm năng tăng trưởng của Lào ở mức cao nên đã không tạo áp lực quá lớn lên lạm phát. Tỷ lệ lạm phát bình quân cả năm 2007 chỉ ở mức 4,51%.

Trong năm 2008, Chính phủ CHDCND Lào đã đặt mục tiêu CSTT cho năm 2008 là tăng trưởng kinh tế ở mức 8%, mức lạm phát trung bình duy trì dưới 6%, tiếp tục giữ tỷ giá hối đoái ổn định. Dự trữ ngoại hối đảm bảo cho hơn năm tháng nhập khẩu, cung tiền tăng trưởng hơn 18% hoặc bằng 22% GDP. Tăng trưởng huy động tiền gửi là 38%, và tăng trưởng tín dụng là 26%. Để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng nước CHDCND Lào tiếp tục thực hiện CSTT nới lỏng bằng cách sử dụng cách công cụ gián tiếp như sau [59, tr.22]:

Ba lần giảm lãi suất vay vốn ngắn hạn từ NHTW từ mức 12%/năm xuống 7%/năm.

Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng các loại trái phiếu đủ điều kiện với tổng giá trị không quá 2% trên tổng số dự trữ yêu cầu. Tuy nhiên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn là 5% đối với tiền gửi bằng đồng Kip và 10% cho tiền gửi bằng ngoại tệ.

Phát triển nghiệp vụ thị trường mở thông qua cơ chế xác định lãi suất của các hợp đồng mua hẳn và mua lại, cũng như thúc đẩy hoạt động phát hành trái phiếu của Ngân hàng nước CHDCND Lào.



Biểu đồ 3.13: Diễn biến lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay, huy động, và lãi suất trái phiếu Chính phủ của Lào giai đoạn 2006 - 2010

Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế, IMF.

Hoàn thiện các điều kiện để phát triển nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã tác động hiệu quả hơn đến các mục tiêu trung gian của


CSTT là cung tiền và tín dụng với nền kinh tế. Cụ thể, đến cuối tháng 12 năm 2008, cung tiền đã đạt mức 11.563,9 tỷ Kip, tăng 18,31% so tháng 12 năm 2007 và bằng 25% GDP. Cùng với việc cung ứng tiền cho nền kinh tế tăng cao hơn so với mục tiêu đặt ra, GDP đạt gần 8% thì trong bối cảnh khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới, kết quả trên có thể coi là những điểm sáng cho nền kinh tế Lào năm 2008. Lạm phát cả năm là 7,6% (tuy nhiên, bên cạnh ảnh hưởng của nới lỏng CSTT thì một phần của việc giá cả tăng lên xuất phát từ ảnh hưởng từ giá dầu thế giới tăng, thiên tai và dịch cúm gia cầm cũng góp phần làm giá lương thực thực phẩm trong nước năm 2008 tăng mạnh). Mặc dù tỷ lệ lạm phát chưa ở mức cao nhưng đây là tín hiệu cảnh báo đối với điều hành CSTT khi các nhân tố từ bên ngoài nền kinh tế do hội nhập kinh tế quốc tế có thể gây ra những ảnh hưởng không mong muốn. Điều này đòi hỏi công tác điều hành CSTT phải luôn thận trọng, linh hoạt để kiểm soát tình hình kinh tế vĩ mô.

Trong năm 2009, Ngân hàng nước CHDCND Lào đặt mục tiêu duy trì ổn định giá trị đồng Kip, tuy nhiên vẫn tiếp tục nới lỏng tiền tệ và ưu tiên mục tiêu tăng trưởng kinh tế, hướng tới một hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả thông qua việc xây dựng một hệ thống giám sát mạnh và một hệ thống thanh toán hiện đại, tiếp tục phát triển thị trường tài chính, tạo điều kiện để thành lập thị trường chứng khoán theo dự kiến trong năm 2010 [60, tr.5].

Tăng trưởng cao và kiềm chế lạm phát thành công, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã sử dụng linh hoạt nhiều công cụ của CSTT nhằm đạt được các mục tiêu này. Cụ thể, lãi suất chiết khấu tiếp tục được điều chỉnh giảm trong hai tháng đầu năm, từ 7% xuống 6% và 5%, đến cuối năm xuống còn 4%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc duy trì không đổi. Nghiệp vụ thị trường mở phát triển, hoạt động bơm hút vốn khả dụng của các NHTM được thực hiện linh hoạt để góp phần hạ nhiệt cho nền kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động trên thị trường mở, trái phiếu NHTW được phát hành để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng của Chính phủ. Cung tiền năm 2009 đã tăng 31,2% (32,43% GDP), tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tăng 106,34%.

Bất chấp các ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Lào trong năm 2009 đã đạt 6,4%, chỉ đứng sau Trung Quốc tại khu vực Đông Á. Lý do chính giúp Lào đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng là tiềm năng tăng trưởng tốt, nền kinh tế chưa hội nhập sâu vào hệ thống

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/04/2022