hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với sự lớn mạnh về quy mô của hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác, kênh tín dụng đã trở thành kênh truyền dẫn quan trọng bên cạnh kênh lãi suất trong truyền tải CSTT tới nền kinh tế.
Thứ ba, điều hành CSTT đã dần linh hoạt hơn trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều biến động
Qua thời gian, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã sử dụng linh hoạt và phối hợp hiệu quả hơn các công cụ của CSTT để ổn định thị trường, phù hợp với mục tiêu đề ra trong từng giai đoạn cho dù là kiềm chế lạm phát gia tăng hay thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Lượng cung ứng tiền tệ được kiểm soát chặt chẽ hơn cùng với việc điều chỉnh lãi suất điều hành phù hợp với diễn biến vĩ mô đã góp phần duy trì ổn định kinh tế. Đồng thời, sự linh hoạt hoạt trong điều hành CSTT cũng góp phần giảm thiểu phần nào tác động của các cú sốc từ bên ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Lào như tình trạng lạm phát từ phía cung do giá cả hàng hoá thế giới tăng (điều hành thận trọng lãi suất, cung tiền, tín dụng để tránh tình trạng lạm phát từ phía cầu kết hợp với lạm phát từ phía cung gia tăng), hay nguồn vốn đầu tư nước ngoài biến động do khủng hoảng tài chính -suy thoái kinh tế thế giới xảy ra (mở rộng tín dụng nội địa để bảo đảm nguồn vốn cho sản xuất và tiêu dùng).
Thứ tư, điều hành CSTT đã dần chuyển sang sử dụng các công cụ gián tiếp
Trong điều hành CSTT, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã chuyển dần từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Các công cụ như dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, lãi suất OMO dần được sử dụng với tần suất cao hơn nhằm định hướng thị trường diễn biến phù hợp với mục tiêu của CSTT hơn là sử dụng những công cụ như áp hạn mức tăng trưởng tín dụng hay quy định trần lãi suất cho hệ thống NHTM vào những nước trước 2005. Nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng thường xuyên hơn ở cả hai chiều mua và bán với quy mô hoạt động được mở rộng trong khi hàng hoá được Ngân hàng nước CHDCND Lào phát hành bổ sung, lựa chọn và quy trình nghiệp vụ không ngừng được hoàn thiện.
Công cụ dự trữ bắt buộc đã dẫn được hạn chế sử dụng hơn, theo hướng bảo đảm vai trò người cho vay cuối cùng của NHTW và hạn chế tình trạng đô la hoá hơn là quản trị thanh khoản của hệ thống NHTM. Đây là một công cụ mạnh, chỉ một sự thay đổi nhỏ của nó có thể dẫn đến sự thay đổi lớn về nguồn vốn khả dụng
nên nếu lạm dụng và sử dụng thường xuyên sẽ gây bất ổn cho hoạt động kinh doanh cũng như tiềm ẩn rủi ro thanh khoản cho các NHTM. Ngân hàng nước CHDCND Lào luôn duy trì mức chênh lệch cao trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa đồng Kip và ngoại tệ là 5%. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ cao hơn tiền gửi bằng Kip đã góp phần hạn chế trình trạng đô la hoá.
Thứ năm, thực hiện tái cơ cấu hệ thống NHTM theo hướng nâng cao năng lực tài chính và năng lực kinh doanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Diễn Biến Lãi Suất Tiền Gửi Và Lãi Suất Cho Vay Của Lào Giai Đoạn 2003 - 2005 (%)
- Tỷ Lệ Lạm Phát Và Tăng Trưởng Cung Tiền Của Lào Giai Đoạn 2006 - 2010
- Cán Cân Thanh Toán Của Lào Giai Đoạn 2007 - 2012 (% Gdp)
- Định Hướng Phát Triển Kinh Tế Và Điều Hành Chính Sách Tiền Tệ Của Nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào Đến Năm 2020
- Một Số Chỉ Tiêu Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Của Lào Giai Đoạn 2011-2015 Và 2020
- Hoàn Thiện Các Công Cụ Điều Hành Chính Sách Tiền Tệ
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Ngân hàng nước CHDCND Lào đã thực hiện tái cơ cấu hệ thống NHTM cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát hoạt động kinh doanh của khu vực này. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh đến từ các NHTM nước ngoài cũng như trong nước và sự di chuyển vốn nhanh chóng có thể ảnh hưởng tới tình hình tài chính, thanh khoản và lan truyền tới nền kinh tế. Công tác thanh tra, giám sát được tăng cường giúp Ngân hàng nước CHDCND Lào dễ dàng nhận diện được những rủi ro đã phát sinh và tiềm ẩn để triển khai các biện pháp khắc phục cũng như phòng ngừa. Nhờ vậy, công tác điều hành CSTT cũng như truyền dẫn CSTT tới nền kinh tế trở nên dễ dàng hơn và hiệu quả hơn so với trước đây. Ngoài ra, thông qua việc bơm vốn hỗ trợ, các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước và tiến hành tái cơ cấu các NHTM yếu kém, năng lực tài chính lẫn kinh doanh của khu vực này đã được cải thiện hơn trước.
Thứ sáu, mức độ độc lập trong điều hành CSTT được cải thiện.
Mức độ độc lập trong điều hành CSTT của Lào đã dần được cải thiện khi Ngân hàng nước CHDCND Lào đã hạn chế các khoản vay trực tiếp ngoài ngân sách cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng; tuy nhiên, với các khoản cho vay đã cam kết trong những năm trước thì năm nay vẫn phải tiếp tục giải ngân. Nâng cao mức độ độc lập của CSTT sẽ giúp Ngân hàng nước CHDCND Lào theo đuổi các mục tiêu phù hợp như ổn định giá trị của đồng nội tệ, hạn chế những tác động của các cú sốc ngoài nên kinh tế hơn là phải theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế quá cao trong tương lai, từ đó giảm thiểu rủi ro gây ra lạm phát và mất ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ bảy, điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ.
Công tác điều hành chính sách tỷ giá đã tương đối thành công khi theo đuổi
nhất quán cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Với mục tiêu duy trì sự ổn định của tỷ giá, các hoạt động can thiệp của của Ngân hàng nước CHDCND Lào đã bảo đảm cho đồng Kip Lào không biến động quá mạnh so với các đồng ngoại tệ khác như USD và THB, đồng thời cũng cho phép sự linh hoạt nhất định trong xác định tỷ giá. Nhờ tỷ giá ổn định mà các hoạt động ngoại thương được diễn ra thuận lợi khi Lào tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế.
Biểu đồ 3.29: Diễn biến tỷ giá Kip/USD, Kip/THB, và USD/THB tại Lào giai đoạn 2006 - 2012
Nguồn: [Error! Reference source not found.].
Thứ tám, công tác thông tin, tuyên truyền về CSTT được triển khai rộng rãi
Việc thông tin, tuyên truyền về định hướng và công tác điều hành CSTT được thực hiện tốt hơn, thể hiện qua việc đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin của xã hội về các vấn đề tiền tệ, tín dụng. Hầu hết các thông tin về CSTT, hoạt động của NHTW và hệ thống NHTM dần được công khai minh bạch qua các kênh thông tin khác nhau như trả lời báo chí, tổ chức họp báo, công bố kết quả điều hành CSTT tại website, và báo cáo thường niên. Chính điều này đã góp phần định hướng, tạo sự đồng thuận và ủng hộ trong dư luận với các chính sách của Chính phủ và Ngân hàng nước CHDCND Lào về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
3.3.2.1. Những hạn chế
Mặc dù công tác điều hành CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào từ năm 1997 cho tới nay đã có nhiều thành công đáng ghi nhận nhưng vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng phải đối mặt với
nhiều thách thức hơn khi hội nhập vào kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, trong một số giai đoạn, tỷ lệ lạm phát tăng cao vượt khả năng kiểm soát của Chính phủ và Ngân hàng nước CHDCND Lào do CSTT nới lỏng
Chỉ trong giai đoạn từ năm 2005 cho tới nay, tình trạng lạm phát tại Lào mới được kiểm soát tốt. Trong giai đoạn từ năm 2004 trở về trước, lạm phát cao và biến động thất thường đã khiến cho các quan hệ kinh tế và tình hình đời sống, kinh tế xã hội của dân chúng bị ảnh hưởng tiêu cực. Ngoài nguyên nhân từ phía cung và cơ cấu (yếu kém về cơ cấu, thể chế thị trường và năng lực quản lý vĩ mô) thì một nguyên nhân căn bản nữa là do sự mất cân đối về cung - cầu tiền. CSTT nới lỏng nhằm theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao đã khiến cho lượng cung ứng tiền và tín dụng vượt xa nhu cầu thực của nền kinh tế, khiến cho lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng tăng cao. Sau đó, các biện pháp thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng nước CHDCND Lào đã phần nào ảnh hưởng không tốt tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu kinh tế xã hội khác. Liên tiếp 2 lần Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 4 và thứ 5 không đạt mục tiêu về tăng trưởng kinh tế và lạm phát, là hệ quả rõ ràng nhất của việc theo đuổi CSTT nới lỏng thiếu kiểm soát.
Thứ hai, năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng còn yếu kém, chưa tương xứng với quy mô phát triển của hệ thống
CSTT mở rộng trong một thời gian dài cùng với việc hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện để hệ thống NHTM mở rộng quy mô nhanh chóng, đặt ra vấn đề về chất lượng tài sản của hệ thống, cũng như sự phát triển bền vững của hệ thống.
Một là: mặc dù tỷ lệ nợ xấu tính tới cuối năm 2011 chỉ ở mức 2,2% trên tổng dư nợ tín dụng nhưng chủ yếu là do tín dụng tăng trưởng quá nhanh đã làm tỷ lệ nợ xấu giảm xuống trong nợ xấu về giá trị tuyệt đối đã tăng nhanh chóng. Hơn nữa, các khoản tín dụng được cấp liên tục đã phần nào giúp các khách hàng vốn dĩ đã mất khả năng thanh toán tránh được việc bị rơi vào tình trạng không trả được nợ. Nếu việc cấp tín dụng bị hạn chế khi thực hiện CSTT hoặc do cú sốc trong và ngoài nền kinh tế xảy ra, tỷ lệ nợ xấu thực chất sẽ được bộc lộ chính xác hơn. Tính đến giữa năm 2012, tỷ lệ nợ xấu đã tăng từ mức 2,2% lên mức 3,7%. Chất lượng tài sản có của hệ thống NHTM ở mức thấp kết hợp với tình trạng tỷ trọng vốn chủ sở hữu thấp, hoạt động kinh doanh ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể phát sinh trong tương lai, có thể ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định của hệ thống tài chính cũng như
làm giảm đi khả năng truyền dẫn CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào.
Hai là: hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính phi ngân hàng tăng trưởng nhanh chóng về số lượng lẫn quy mô khiến cho phạm vi và hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát bị giảm đi phần nào. Các cuộc thanh tra chủ yếu dựa trên kiểm tra mức độ tuân thủ về mặt pháp lý của các NHTM chứ chưa dựa trên mức độ rủi ro. Ngoài ra, mặc dù Ngân hàng nước CHDCND Lào đã ban hành quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ mức 8% lên 12%, ban hành các quy định mới về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro nhưng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các NHTM Nhà nước, nơi nắm giữ 66,2% lượng tiền huy động, 64,1% lượng tín dụng của toàn hệ thống chỉ đạt được hệ số này ở mức 6%. Thực trạng này làm dấy lên quan ngại về khả năng chống đỡ của hệ thống NHTM trước những cú sốc kinh tế và làm giảm đi như niềm tin của công chúng vào một hệ thống ngân hàng an toàn và ổn định.
Thứ ba, sử dụng các công cụ CSTT mang tính hành chính làm méo mó thị trường
Bên cạnh các công cụ mang tính thị trường, Ngân hàng nước CHDCND Lào vẫn sử dụng một số công cụ mang tính hành chính để điều hành CSTT như quy định trần lãi suất hay hạn mức tín dụng của các ngân hàng. Việc áp dụng cơ chế can thiệp mang tính hành chính lên các chỉ tiêu về lãi suất và khối lượng tín dụng chỉ có tác dụng trong thời gian ngắn khi mà mức độ phát triển của thị trường tài chính còn sơ khai, các công cụ kiểm soát gián tiếp chưa phát huy được hiệu quả. Từ trung hạn trở đi, việc kiểm soát trực tiếp sẽ dẫn tới sự phát triển méo mó của thị trường tài chính, và dẫn tới sự mất ổn định của nền kinh tế do lãi suất, tín dụng là những biến số có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của nền kinh tế.
Việc can thiệp trực tiếp vào lãi suất và tín dụng (tức giá cả và khối lượng của khoản vay) của Ngân hàng nước CHDCND Lào dẫn tới những bất hợp lý như: (1) các doanh nghiệp và hộ gia đình không được hưởng mức lãi suất phù hợp cho những khoản tiết kiệm (thậm chí lãi suất thực là âm), làm giảm tỷ lệ tiết kiệm và hạn chế sự phát triển của thị trường tài chính; (2) việc quy định mang tính hành chính, thiếu tính thị trường khiến cho các trung gian tài chính không có động cơ cải thiện các hoạt động của mình, đặc biệt là vấn đề định giá rủi ro; (3) các ngân hàng có xu hướng tập trung tín dụng vào các doanh nghiệp lớn, có quan hệ mật thiết với ngân hàng và bỏ rơi hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa; (4) nguồn vốn trong nền
kinh tế không được phân bổ hiệu quả; (5) Ngân hàng nước CHDCND Lào không nắm được những thông tin quan trọng về tình hình thanh khoản, tín dụng của hệ thống ngân hàng cũng như những chuyển biến trong nền kinh tế vĩ mô; (6) các công cụ gián tiếp dần mất đi hiệu quả khi các chủ thể chịu sự điều tiết tìm các biện pháp để hạn chế sự quản lý của Chính phủ và Ngân hàng nước CHDCND Lào.
Thứ tư, dự trữ ngoại hối tuy tăng về giá trị tuyệt đối nhưng quy đổi ra tuần nhập khẩu giảm, ảnh hưởng tới khả năng can thiệp trên thị trường ngoại hối
Lượng dự trữ ngoại hối của Ngân hàng nước CHDCND Lào mặc dù có tăng nhưng khi quy đổi ra tuần nhập khẩu lại thể hiện xu hướng giảm rõ rệt. Hơn nữa, tài sản có ngoại tệ ròng của của hệ thống NHTM lẫn cả hệ thống ngân hàng cũng thể hiện chung một xu hướng giảm.
Biểu đồ 3.30: Thay đổi dự trữ ngoại hối và tài sản ngoại tệ ròng của Ngân hàng nước CHDCND Lào giai đoạn 2006 - 2012
Nguồn: [Error! Reference source not found.].
Thực trạng này hạn chế khả năng can thiệp mua bán ngoại hối trên thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá trị đồng kip cũng như khả năng chống đỡ của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế trước các cú sốc về tỷ giá, giao dịch thương mại và vốn. Với tốc độ tăng trưởng tín dụng cao như hiện nay đã làm tăng cầu nhập khẩu cả hàng hoá tiêu dùng lẫn tư liệu sản xuất, làm thâm hụt cán cân vãng lai tiếp tục ở mức cao và xói mòn dự trữ ngoại hối. Dự trữ ngoại hối nếu giảm xuống sẽ gây khó khăn trong việc tiếp tục duy trì tỷ giá ổn định, từ đó gây ra những áp lực lên lạm phát. Trong trường hợp xấu hơn, dự trữ ngoại hối mỏng sẽ khuyến khích các làn sóng đầu cơ khiến cho cuộc khủng hoảng dự trữ ngoại hối xảy ra và việc phá giá
đồng nội tệ là điều khó tránh khỏi.
3.3.2.2. Nguyên nhân của tồn tại
Nhóm nguyên nhân thứ nhất, Ngân hàng nước CHDCND Lào chưa có một khung điều hành CSTT bao gồm các mục tiêu và công cụ rõ ràng và hiệu quả
Thứ nhất, về các mục tiêu của CSTT, Ngân hàng nước CHDCND Lào chưa hình thành được các mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian, và mục tiêu cuối cùng thực sự rõ ràng và phù hợp
CSTT thực hiện bởi Ngân hàng nước CHDCND Lào là đa mục tiêu và không có mục tiêu ưu tiên rõ ràng. Theo Luật Ngân hàng nước CHDCND Lào, một trong những mục tiêu của NHTW là thúc đẩy và duy trì sự ổn định của đồng nội tệ, quản lý hiệu quả tốc độ tăng trưởng tài sản nội tệ ròng, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý, và hướng tới thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo các kế hoạch 5 năm. Các mục tiêu này đều được định nghĩa rất rộng, không có mục tiêu ưu tiên nào được xác định rõ ràng. Việc Ngân hàng nước CHDCND Lào cùng một lúc phải ưu tiên cả hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và duy trì tỷ lệ lạm phát dưới tốc độ tăng trưởng GDP có thể khiến cho việc điều hành CSTT gặp nhiều khó khăn do hai mục tiêu lạm phát và tăng trưởng thường có mâu thuẫn với nhau trong ngắn hạn và sẽ buộc phải hy sinh một mục tiêu để thực hiện mục tiêu kia. Mặc dù trong thời gian qua nền kinh tế Lào không gặp quá nhiều khó khăn khi tỷ lệ lạm phát ở mức tương đối thấp, nhưng trong tương lai, việc duy trì các mục tiêu của CSTT như hiện nay sẽ không còn phù hợp (trên thế giới, các quốc gia không đật ra mục tiêu tỷ lệ lạm phát thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế vì mục tiêu này không có cơ sở khoa học và thiếu tính định hướng cho công tác điều hành CSTT cũng như định hướng với công chúng).
Khi nền kinh tế Lào hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ chảy vào nền kinh tế khi nhận thấy thị trường của Lào có nhiều tiềm năng phát triển. Cùng với kỳ vọng về triển vọng kinh tế, các nguồn vốn đầu tư trong nước lẫn nước ngoài sẽ khiến nền kinh tế có khả năng rơi vào tình trạng tăng trưởng quá nóng, tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao. Nếu như Ngân hàng nước CHDCND Lào theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà bỏ qua mục tiêu ổn định giá trị tiền tệ thì
lạm phát cao xảy ra là điều khó tránh khỏi, gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô.
Mặc dù không có những tuyên bố chính thức về các mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động của Ngân hàng nước CHDCND Lào nhưng tiền cơ sở và vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng được xem là mục tiêu hoạt động. Trong khi đó, tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng được xem là mục tiêu trung gian. Cho dù lượng tiền cơ sở được xem là mục tiêu hoạt động nhưng trong quá trình điều hành, Ngân hàng nước CHDCND Lào chỉ phần nào kiểm soát và điều tiết được một số nhân tố tác động đến lượng tiền cơ sở và chủ yếu điều hành khối lượng tiền cung ứng trong phạm vi được Chính phủ cho phép hàng năm. Điều này dẫn tới sự thụ động của Ngân hàng nước CHDCND Lào trong công tác điều hành CSTT.
Thứ hai, việc sử dụng các công cụ CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào nhìn chung chưa chưa đạt được mức độ linh hoạt và hiệu quả cần thiết
Các công cụ gián tiếp dù đã được Ngân hàng nước CHDCND Lào áp dụng nhưng chưa hoàn toàn phát huy được hiệu quả trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, kiểm soát lãi suất, và ổn định thị trường tiền tệ.
Về công cụ dự trữ bắt buộc, trong một thời gian dài, Ngân hàng nước CHDCDN Lào sử dụng công cụ này như một công cụ chủ đạo trong điều hành CSTT để tác động vào lượng vốn khả dụng của các ngân hàng. Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực về thanh khoản và làm tăng chi phí của các ngân hàng, từ đó tạo ra những cú sốc về lãi suất trên thị trường. Ngoài ra, quy định về dự trữ bắt buộc chưa bao trùm toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế nên đã làm hạn chế khả năng kiểm soát lượng cung ứng tiền của Ngân hàng nước CHDCND Lào qua công cụ này. Nhiều tổ chức có hoạt động huy động vốn và cấp tín dụng nhưng lại không phải thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc như Quỹ hỗ trợ phát triển, tiết kiệm Bưu điện, Ngân hàng chính sách… [31].
Về công cụ tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn ít có tác dụng đối với lãi suất thị trường tiền tệ do lãi suất này không được điều hành theo nguyên tắc thị trường, khối lượng tái cấp vốn luôn xác định trước và nhằm mục đích bổ sung vốn khả dụng cho các ngân hàng thương mại Nhà nước thực hiện các chương trình, dự án theo chỉ đạo của Chính phủ với mức lãi suất phổ biến thấp hơn mức lãi suất thị trường [31]. Công cụ này chưa được sử dụng để định hướng tín dụng vào các lĩnh vực chủ chốt, có lợi thế của nền kinh tế để có thể xây dựng một hệ thống doanh nghiệp có năng