đảm tính thực thi của pháp luật, bởi lẽ phán quyết của Toà án nhân danh nhà nước sẽ chỉ là những phán quyết trên giấy nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đầy đủ trên thực tế. Hoạt động THA có hiệu quả, một mặt vừa đảm bảo có hiệu quả quyền tư pháp của nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội, của công dân đối với phán quyết nhân danh nhà nước của Toà án; mặt khác nó là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội và công dân khi bị xâm hại.
Một trong những hạn chế của hệ thống pháp luật nước ta đó là trên nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật, do đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Một hệ thống pháp luật xa rời cuộc sống sẽ vô tình làm người dân mất đi lòng tin vào khả năng xây dựng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền.
Từ thực tế trên, đòi hỏi các chính sách, giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA phải đảm bảo tính khả thi. Tính khả thi của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng phải phản ánh, phù hợp với tình hình THADS trên thực tế. Như vậy, pháp luật về xác minh điều kiện THA mới có tính khả thi và đi vào cuộc sống. Tính khả thi trong việc hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện THA thể hiện qua yêu cầu: Pháp luật về xác minh điều kiện THA phải bảo đảm khung khổ pháp lý cho các chủ thể tiến hành xác minh điều kiện THA vừa phù hợp với thực tiễn, vừa định liệu trước các vấn đề có thể phát sinh trong quá trình thực hiện xác minh điều kiện THA tại Việt Nam.
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án phải đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Hợp tác quốc tế là nhu cầu, là xu thế tất yếu trong sự tồn tại và phát triển của tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay. Nhận thức được tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, nên liên tiếp trong các kỳ đại hội Đảng, từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay, Đảng ta vẫn khẳng định vấn đề hợp tác quốc tế về kinh tế. Trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 trình bày tại Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã nhận định: “Quá trình quốc tế hoá kinh tế thế giới, quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật, xu thế hòa bình và hợp tác ở
khu vực và trên thế giới ngày càng phát triển. Với đường lối đổi mới và cởi mở, nước ta có thể tận dụng được những khả năng to lớn về vốn, thị trường, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của bên ngoài để bổ sung và phát huy sức mạnh trong nước” [34]. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá theo tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” nhằm tham gia tích cực vào đời sống kinh tế quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ VIII tiếp tục xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế” [35], khẳng định chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, công nghệ và thị thị trường quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường” [36]. Đặc biệt, Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị đã đưa ra những đánh giá về tình hình thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và nhấn mạnh nội dung hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, trong đó xác định rò mục tiêu: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trước mắt là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001-2010 và Kế hoạch 5 năm 2001-2005” [4]. Đây là nghị quyết rất quan trọng, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta. Tiếp đó, Đại hội X nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác” [37]. Ngày 05/02/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới” [2]. Đại hội XI đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát
triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” [38]. Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta. Ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22- NQ/TW về hội nhập quốc tế [5]. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rò và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rò hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
Qua đó cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đất nước ta đã từng bước, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, quá trình hội nhập cũng đặt nền kinh tế nước ta trước những thách thức lớn, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vượt qua mới có thể tận dụng tốt cơ hội phát triển. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nước ta đã tham gia và là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, các điều ước quốc tế cũng như các thoả thuận quốc tế. Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế, các điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế, chúng ta có nghĩa vụ phải tuân thủ đầy đủ các cam kết quốc tế của mình, trong đó có nghĩa vụ sửa đổi pháp luật cho tương thích. Vì thế việc rà soát hệ thống pháp luật để loại bỏ những quy định mâu thuẫn, gây cản trở cho việc thực hiện các cam kết quốc tế, cũng như việc sửa đổi luật pháp cho tương thích với các cam kết, nhất là đối với các cam kết của chúng ta khi gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới, điều ước quốc tế đa phương là việc làm cần thiết nhằm tăng cường vị thế và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Hệ thống pháp luật cần được hoàn chỉnh thích hợp với các định chế của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và nhiều định chế quốc tế khác đặt ra nhiều yêu cầu liên quan đến THA, ví dụ như đòi hỏi Việt Nam phải bảo đảm một cơ chế hiệu quả trên lãnh thổ của mình để công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài, thủ tục thi
hành phải công bằng, hợp lý và nhanh chóng; yêu cầu việc THA phải được thực hiện một cách công bằng, hiệu quả và có tính thực thi. Đồng thời, việc mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài sẽ làm gia tăng các quan hệ dân sự, kinh tế, lao động có yếu tố nước ngoài. Tình hình trên đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật THADS nói chung và pháp luật về xác minh điều kiện THA nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập của nước ta trong tình hình mới.
Có thể bạn quan tâm!
- Thời Hạn Xác Minh Điều Kiện Thi Hành Án Dân Sự
- Xác minh điều kiện thi hành án dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành - 16
- Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Và Nâng Cao Hiệu Quả Thi Hành Pháp Luật Về Xác Minh Điều Kiện Thi Hành Án Dân Sự
- Vấn Đề Ủy Thác Tư Pháp Về Xác Minh Điều Kiện Tha
- Chú Trọng Xây Dựng Các Quy Định Nhằm Nâng Cao Trách Nhiệm Của Các Cơ Quan, Tổ Chức Trong Công Tác Phối Hợp Tha
- Xác minh điều kiện thi hành án dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành - 21
Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
4.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam
4.2.1.1. Về chủ thể xác minh điều kiện thi hành án
Chủ thể tiến hành xác minh nên bao gồm cả người được THA và cán bộ chịu trách nhiệm THA, trong đó, cần đề cao việc xác minh của người được THA. Điều này phù hợp với tính chất của việc thi hành các bản án, quyết định về dân sự. THADS suy cho cùng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích “tư” của người được THA. Người được THA là người có động lực cao nhất trong việc xác minh điều kiện THADS. Ở Việt Nam, pháp luật THADS hiện hành quy định chủ thể có nhiệm vụ xác minh là CHV, điều này mặc dù có những ưu điểm nhất định, khắc phục những bất cập của Luật THADS năm 2008, nhưng CHV không thể có động lực xác minh bằng người được THA, nên việc xác minh có hiệu quả hay không trên thực tế lại phụ thuộc vào sự mẫn cán, nhiệt tình của mỗi CHV trong mỗi vụ việc cụ thể. Hơn nữa, quy định CHV có nhiệm vụ xác minh đặt ra gánh nặng công việc quá tải đối với CHV, dẫn đến hiệu quả có thể không cao. Bên cạnh đó, như đã được NCS phân tích ở chương Thực trạng, nghĩa vụ xác minh của CHV chỉ giới hạn trong phạm vi “lãnh thổ” nơi cơ quan THA đặt trụ sở, trong khi tài sản thuộc sở hữu của người phải THA lại có thể vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ đó. Thậm chí, kể cả trong phạm vi lãnh thổ, ví dụ như với tài khoản ngân hàng, CHV không thể thực hiện việc xác minh tài khoản ngân hàng bằng việc xác minh tất cả các hệ thống ngân hàng tại địa bàn để xác định tài khoản của người phải THA. Sự thiếu kiểm soát như vậy rất dễ dẫn đến sự tẩu tán, bỏ sót tài sản của người phải THA.
Do đó, để phù hợp với bản chất của THADS, phù hợp với thông lệ quốc tế, giảm nhẹ gánh nặng cho CHV, đồng thời hiện thực hoá chủ trương “xã hội hoá”
công tác THA, nên xem xét khôi phục quy định về sự chủ động trong xác minh điều kiện THADS của người được THA. Tuy nhiên, để không phạm phải các sai lầm đã gặp phải trước đây khi giao nhiệm vụ xác minh cho người được THA, pháp luật cần xây dựng cơ chế hỗ trợ và đảm bảo cho người được THA tiến hành xác minh hoặc yêu cầu các chủ thể có thẩm quyền khác xác minh như tăng cường trách nhiệm của người phải THA trong việc kê khai tài sản; bổ sung trách nhiệm pháp lý cụ thể của các cơ quan, tổ chức nắm giữ thông tin về tài sản của người phải THA trong việc cung cấp thông tin cho người được THA; nâng cao năng lực của TPL trong việc xác minh điều kiện THA.
Vì các lý do nêu trên, NCS đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Luật THADS như sau:
- Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 44 Luật THADS như sau: “Trường hợp chủ động ra quyết định THA, CHV phải tiến hành xác minh điều kiện THA của người phải THA. Trường hợp THA theo đơn yêu cầu, nếu người được THA không thể tự xác minh được điều kiện THA của người phải THA thì có thể yêu cầu CHV tiến hành xác minh. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định THA hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của người được THA, CHV phải tiến hành việc xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác minh ngay”.
- Thứ hai, sửa đổi, bổ sung điểm đ khoản 1 Điều 7 Luật THADS như sau: “Tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện THA của người phải THA; yêu cầu CHV xác minh điều kiện THA”
- Thứ ba, bãi bỏ điểm e khoản 1 Điều 7 Luật THADS: Xác minh điều kiện THADS thường phải thực hiện thông qua người thứ ba, là chủ thể nắm giữ thông tin nên để tạo động lực cho sự hình thành và phát triển của hệ thống dữ liệu cung cấp thông tin, cần phải có chi phí để duy trì và phát triển hệ thống đó. Đồng thời, xuất phát từ quan điểm phục vụ lợi ích cho người được THA thì việc người được THA bỏ chi phí để thu về các lợi ích mà mình mong muốn cũng là chính đáng. Do vậy, cần quy định về nghĩa vụ chi trả chi phí xác minh của người được THA nếu yêu cầu CHV xác minh, để từ đó, CHV sẽ tiến hành chi trả cho các chủ thể cung cấp thông tin.
- Thứ tư, sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 2 Điều 7 Luật THADS như sau:
“Chịu phí, chi phí THA, chi phí xác minh theo quy định của luật này”.
4.2.1.2. Về thời hạn xác minh điều kiện thi hành án
Cần xem xét lại quy định về thời hạn xác minh ở các khía cạnh sau:
- Thứ nhất, về thời điểm bắt đầu thời hạn. Theo quy định thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn xác minh của CHV là thời điểm hết thời gian tự nguyện THA. Mặc dù, cách tính thời điểm này hợp lý ở chỗ tiết kiệm được thời gian, công sức của CHV nếu người phải THA tự nguyện THA. Tuy nhiên, thực tế của công tác xác minh trong trường hợp cần áp dụng biện pháp bảo đảm THA là phong tỏa tài khoản hoặc tạm dừng việc đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải THA thì quy định này là một trở ngại đối với CHV nếu muốn xác minh trước khi áp dụng biện pháp này. Bởi lẽ, theo quy định hiện hành về việc áp dụng biện pháp bảo đảm, CHV có thể áp dụng biện pháp bảo đảm ngay sau khi có quyết định THA và không cần phải chờ hết thời gian tự nguyện THA. Và để có thể áp dụng biện pháp bảo đảm là phong tỏa tài khoản hoặc tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản, CHV cần phải xác minh để xác định số tiền trong tài khoản, xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải THA. Vì vậy, tác giả cho rằng thời điểm bắt đầu tính thời hạn nên từ khi có quyết định THA sẽ hợp lý hơn cả. Điều này sẽ không làm hạn chế quyền hạn của CHV khi xác minh điều kiện THA và cũng tránh được tình trạng người phải THA cố tình tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ THA. Cách tính thời hạn như vậy cũng phù hợp với thực tiễn hoạt động THA mà các CHV đang thực hiện. Cụ thể, khi CHV xuống “địa bàn” để giao quyết định THA cho đương sự, CHV thường kết hợp làm việc với người phải THA, đồng thời tiến hành xác minh điều kiện THA của người phải THA.
- Thứ hai, cần điều chỉnh lại thời hạn theo hướng kéo dài thời hạn xác minh của CHV. Đây không phải là quy định có tính chất “dung túng” cho CHV, mà là pháp luật phải tính toán một khoảng thời gian vật chất đủ để CHV tác nghiệp. Theo chúng tôi, khoảng thời gian này nên là 01 tháng tính từ ngày ra quyết định THA chứ không phải trong thời gian 10 ngày kể từ ngày hết thời gian tự nguyện THA như hiện nay.
- Thứ ba, cần quy định rò nghĩa vụ xác minh của CHV đối với việc THA do cơ quan THA chủ động ra quyết định THA và việc THA theo đơn yêu cầu. Theo đó, đối với việc THA do cơ quan THA chủ động ra quyết định THA thì CHV vẫn phải tiến hành xác minh theo định kỳ 06 tháng một lần đối với người phải THA chưa có điều kiện THA; 01 năm một lần đối với trường hợp người phải THA chưa có điều
kiện THA là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải THA. Còn đối với việc THA theo đơn yêu cầu thì việc chủ động xác minh nên giao cho người được THA. Cụ thể, NCS đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 44 Luật THADS như sau: “Trường hợp chủ động ra quyết định THA, người phải THA chưa có điều kiện THA thì ít nhất 06 tháng một lần, CHV phải xác minh điều kiện THA; trường hợp người phải THA chưa có điều kiện THA là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải THA thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Trường hợp ra quyết định THA theo yêu cầu thì sau khi xác minh mà người phải THA chưa có điều kiện THA, cơ quan THA phải thông báo bằng văn bản cho người được THA về kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA hoặc có yêu cầu của người được THA”.
4.2.1.3. Về vấn đề ủy quyền xác minh
Hiện nay, vấn đề ủy quyền xác minh được xem như là một quy định có tính hợp lý của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật THADS. Do hiện nay, nhiệm vụ xác minh thuộc về CHV, chi phí xác minh do Ngân sách Nhà nước chi trả. Trong khi đó, với sự phát triển hết sức mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, tài sản của người phải THA không phải chỉ ở một địa phương cố định mà có thể ở rất nhiều nơi khác nhau. Như đã phân tích, lượng án hiện nay đối với CHV đang trong tình trạng quá tải nên việc phải xác minh tài sản ở các địa phương khác vừa tốn kém chi phí, vừa không đảm bảo về mặt thời gian vật chất cho CHV hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, việc quy định về ủy quyền xác minh là cần thiết. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở quy định về ủy quyền xác minh như hiện nay sẽ gặp phải tình trạng các cơ quan THA được ủy quyền xác minh sẽ làm một cách “chiếu lệ”, “qua loa” cho xong. Sự “qua loa”, “chiếu lệ” này xuất phát từ 03 nguyên nhân chính sau đây:
Nguyên nhân thứ nhất, bản thân cơ quan THA nơi được ủy quyền xác minh cũng đang trong tình trạng quá tải đối với công việc của chính mình nên không còn thời gian, công sức để “ôm đồm” công việc của người khác.
Nguyên nhân thứ hai, khi xác định người phải THA có tài sản hoặc có điều kiện THA khác tại nơi được ủy quyền xác minh thì cơ quan nhận ủy quyền xác minh sẽ đối mặt với khả năng phải nhận ủy thác thi hành chính vụ việc mà mình
vừa tiến hành xác minh. Điều này sẽ dồn gánh nặng về tỉ lệ án phải thi hành lên chính mình nên cơ quan THA sẽ “né tránh” trước bằng cách xác minh “chiếu lệ” cho xong nhiệm vụ.
Nguyên nhân thứ ba và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất, đó chính là, các hình thức chế tài nếu vi phạm quy định về ủy quyền xác minh chưa được quy định khiến các cơ quan THA nơi nhận ủy quyền xác minh có suy nghĩ: chẳng việc gì phải “ôm rơm nặng bụng”.
Vì các lý do trên, NCS cho rằng, để quy định về ủy quyền xác minh phát huy được ý nghĩa vốn có của nó, pháp luật về THADS cần bổ sung quy định về chế tài đối với cơ quan THADS nhận ủy quyền xác minh trong trường hợp chậm xác minh, không tiến hành xác minh hoặc cung cấp kết quả xác minh không đúng với thực tế. Xét về bản chất, một chủ thể sẽ chủ động thực hiện nhiệm vụ của mình khi và chỉ khi có một biện pháp chế tài cụ thể nếu không thực hiện nhiệm vụ đó. Vì vậy, pháp luật THADS phải quy định rò Thủ trưởng cơ quan THADS nơi nhận uỷ quyền xác minh bị xử lý kỷ luật, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường để ràng buộc trách nhiệm của chủ thể này khi tiếp nhận uỷ quyền xác minh. Cụ thể, khoản 6 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP cần được sửa đổi như sau:
“2. Trường hợp cần xác minh làm rò thông tin về tài sản, nơi cư trú, nơi làm việc, trụ sở của người phải THA hoặc các thông tin khác liên quan đến việc THA thì Thủ trưởng cơ quan THADS có thể ủy quyền xác minh cho cơ quan THADS nơi có thông tin.
Việc ủy quyền xác minh của cơ quan THADS phải bằng văn bản, nêu rò nội dung ủy quyền và nội dung cần thiết khác. Thủ trưởng cơ quan THADS nơi nhận ủy quyền phải trả lời bằng văn bản về kết quả xác minh cho cơ quan THADS đã ủy quyền trong thời hạn sau đây:
a) Đối với việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, thời hạn trả lời kết quả xác minh không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền. Trường hợp khó khăn, phức tạp thì thời hạn gửi kết quả xác minh có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
b) Đối với việc xác minh các loại tài sản và thông tin khác, thời hạn trả lời kết quả xác minh không quá 15 ngày, kể từ ngày nhận được ủy quyền.
Trường hợp Thủ trưởng cơ quan THADS nơi nhận ủy quyền không tiến hành xác minh, chậm tiến hành xác minh hoặc kết quả xác minh không đúng với thực tế