Bối Cảnh Kinh Tế Vĩ Mô Việt Nam Và Những Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Điều Hành Chính Sách Tiền Tệ


CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG TRUYỀN TẢI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

QUA KÊNH TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


2.1. BỐI CẢNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

2.1.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối với điều hành chính sách tiền tệ

2.1.1.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô

a/ Thực trạng kinh tế vĩ mô Việt Nam

Trong giai đoạn 2002 - 2007, nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng bình quân 7,88%/năm, tỷ lệ lạm phát bình quân 7,53%. Về phía tổng cung, sự thịnh vượng này có được nhờ mức độ đóng góp lớn của cả ba nhân tố công nghệ, lao động, và vốn đầu tư. Về phía tổng cầu, chi tiêu Chính phủ, sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật Thương mại 2006, ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ, và việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO năm 2007 và được sự hậu thuẫn từ CSTT nới lỏng đã khuyến khích được nguồn lực dồi dào trong khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Tình hình chính trị ổn định kết hợp với định hướng thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh của Chính phủ giai đoạn 2006 - 2010 đã khiến các chủ thể trong nền kinh tế trở nên lạc quan vào triển vọng kinh tế trong tương lai và những kỳ vọng này được phản ánh rất rõ ràng vào hành vi tiêu dùng và đầu tư của cả nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tư duy kinh tế này đã góp phần khiến cho nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2008 - 2015 phải gánh chịu những hệ lụy tiêu cực của giai đoạn tăng trưởng nóng này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Hình 2.1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo ngành


Truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 9

10%


8%


6%


4%


2%


0%

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015


GDP Nông, lâm nghiệp và thủy sản

Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ


Nguồn: Tổng cục Thống kê


Đòn bẩy kinh tế, chủ yếu là CSTK và CSTT nới lỏng từ phía Chính phủ, cùng với nguồn vốn đầu tư và lao động dồi dào đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong khi đầu tư vào yếu tố công nghệ và chất lượng lao động không được quan tâm tương xứng. Hệ quả tất yếu của thực trạng này là hiệu quả đầu tư ngày càng giảm (chỉ số ICOR cao, đặc biệt là thành phần kinh tế Nhà nước – xem hình 2.2 và 2.3), mức độ rủi ro tài chính của nền kinh tế tăng lên (nợ công ở tầm vĩ mô, mức độ rủi ro của hệ thống tài chính, và đòn bẩy tài chính của hệ thống doanh nghiệp ở tầm vi mô), và các bong bóng tài sản dần hình thành (lượng tiền dư thừa quá mức dẫn tới sự bùng nổ của thị trường bất động sản và chứng khoán). Sai lầm trong tư duy về quản trị doanh nghiệp cùng với tỷ lệ đầu tư thấp và thiếu hiệu quả vào các yếu tố sản xuất cốt lõi đã khiến cho khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam giảm mạnh trong khi khả năng chống chọi với các cú sốc từ bên trong nền kinh tế ngày càng suy yếu [20]. Kết hợp với việc gia nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, tính dễ tổn thương của nền kinh tế Việt Nam từ các cú sốc bên ngoài cũng tăng lên đáng kể [7].

Hình 2.2: Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia trong khu vực

Hình 2.3: Hệ số ICOR theo thành phần kinh tế


Khu vực có

Kinh tế ngoài VĐT nước Kinh tế Nhà

Myanmar


nước

Cambodia


Philippines


Nhà nước ngoài

Malaysia


Vietnam


China


Indonesia


0 2 4 6 8 0 2 4 6 8 10 12


2015e 2014 2013 2012 2011 2010 2014 2013 2012 2011


Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế Nguồn: Tổng cục Thống kê

Tuy tỷ lệ lạm phát cao vào cuối năm 2007 và nửa đầu năm 2008 đã được kiềm chế thành công nhờ thực hiện quyết liệt Nghị quyết số 10/NQ-CP về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, nhưng đây là một sự cảnh báo đối với tư duy tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào đầu tư của nền kinh tế Việt Nam. Thực vậy, chậm trễ trong việc nhận thức sự cần thiết phải đổi mới mô hình tăng trưởng từ phía Nhà nước lẫn hệ thống doanh nghiệp cùng với mong muốn lấy lại đà tăng trưởng kinh tế sau suy thoái kinh tế năm 2008 đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải trả giá “khá đắt” trong giai đoạn từ năm 2011 cho tới nay [1]. Chính sách kích thích kinh tế (hỗ trợ lãi suất, tăng


đầu tư công, giảm thuế) lên tới 8% GDP được thực hiện từ năm 2009 chỉ đem lại sự phục hồi trong ngắn hạn, che giấu đi những tồn tại trong chất lượng tăng trưởng kinh tế. Nói một cách khác, các chính sách vĩ mô này (thực hiện theo Nghị quyết số 01/NQ- CP năm 2009 và Nghị quyết số 03/NQ-CP năm 2010) mang nhiều tính tạm thời nhằm đối phó với diễn biến khó khăn trước mắt mà chưa giải quyết được những điểm yếu cố hữu của nền kinh tế.

Lúc này, bất ổn kinh tế vĩ mô tiếp tục được tích lũy, xuất phát từ bốn mất cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản là mất cân đối giữa đầu tư - tiết kiệm, giữa thu - chi ngân sách, giữa xuất khẩu - nhập khẩu, và giữa cung tiền - cầu tiền.

Thứ nhất, việc cố gắng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế qua việc gia tăng vốn đầu tư khiến cho mất cân đối giữa tiết kiệm - đầu tư lẫn gánh nặng nợ của nền kinh tế ngày càng gia tăng [15]. Chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa huy động vốn và sử dụng vốn trên thị trường tiền tệ - tín dụng và thị trường chứng khoán đã tạo ra áp lực lên mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế và làm gia tăng gánh nặng nợ lên khu vực tư nhân lẫn Nhà nước (mặt bằng lãi suất giai đoạn 2008 - 2015 luôn cao hơn mặt bằng lãi suất giai đoạn 2005 - 2007 bất kể tốc độ tăng trưởng cung tiền cao hay thấp). Bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát biến động thất thường và thiếu vắng một thị trường vốn trung dài hạn là các tác nhân đóng góp vào sự gia tăng trong mặt bằng lãi suất bên cạnh áp lực từ chênh lệch đầu tư - tiết kiệm.

Thứ hai, không chỉ có tín dụng đối với khu vực tư nhân gia tăng nhanh chóng mà nợ công, nợ của Chính phủ và nợ nước ngoài đều gia tăng mạnh từ năm 2009 trở lại đây. Mặc dù nợ công chưa vượt ngưỡng an toàn nhưng rủi ro tiềm ẩn từ những khoản nợ của khu vực DNNN không có khả năng chi trả mà phải dùng NSNN trả thay là rất đáng lo ngại. Hơn nữa, việc chưa có một chiến lược quản lý nợ công, đặc biệt là kiểm soát nợ công ở mức an toàn và sử dụng hiệu quả nợ công là một vấn đề đáng quan ngại cho nền kinh tế trong tương lai [15].

Thứ ba, hoạt động ngoại thương sau giai đoạn xuất siêu 3 năm liền 2012 – 2014 đã quay trở lại nhập siêu 3,2 tỷ USD vào năm 2015, tạo áp lực lên tỷ giá. Xuất khẩu tiếp tục gia tăng với tỷ lệ xuất khẩu/GDP không ngừng tăng nhưng hiệu quả mang lại cho nền kinh tế là chưa cao. Giá trị gia tăng hàng xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thấp do chủ yếu là hàng gia công trong khi khu vực trong nước vẫn nhập siêu mạnh, cho thấy sự phụ thuộc vào thị trường nước ngoài của sản xuất và tiêu dùng trong nước (tỷ lệ nội địa hóa thấp). Ngoài ra, cơ cấu ngoại thương phân theo thành phần kinh tế cho thấy khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 61% và 56% kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu, chủ yếu dựa vào nhập khẩu nguyên nhiên liệu để thực hiện gia công với hàm lượng gia tăng thấp. Ngành công nghiệp phụ trợ kém phát triển


là lực cản lớn đối với việc nâng cao chất lượng xuất khẩu (hạn chế việc doanh nghiệp nước ngoài đầu tư và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam).

Thứ tư, mất cân đối cung tiền - cầu tiền và sự dư thừa tín dụng làm trầm trọng hơn thực trạng nguồn vốn được phân bổ thiếu hiệu quả, năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh không được cải thiện làm khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp suy giảm. Trong khi đó, những yếu kém của hệ thống tài chính về sở hữu, quy mô, cơ cấu tín dụng, mức độ an toàn vốn, chất lượng tài sản, và mất cân đối về kỳ hạn, tiền tệ trong bảng cân đối tài sản lại không được xử lý mà chỉ che giấu tạm thời thông qua mở rộng tín dụng và TTS. Kiểm soát cung tiền thiếu hiệu quả dẫn tới hệ quả lạm phát gia tăng (năm 2008 và 2011) và niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ bị suy giảm. Sự mất giá của đồng nội tệ kéo theo tình trạng đô la hóa và vàng hóa nền kinh tế, gây ra những biến động phức tạp, tiềm ẩn những bất ổn đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế. Diễn biến thị trường nội tệ bị ảnh hưởng bởi từ sự bất ổn trong thị trường ngoại tệ và vàng, đặc biệt là khi xảy ra tình trạng đầu cơ ồ ạt của công chúng vào ngoại tệ và vàng. Sự liên thông này đã khiến cho mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế thiếu đi sự ổn định trong cả ngắn hạn lẫn trung dài hạn, ảnh hưởng không tốt tới nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Khả năng kiểm soát thị trường tiền tệ của NHNN cũng bị ảnh hưởng đáng kể [3].

Hệ lụy của sai lầm về mặt chính sách (ở cả cấp độ điều hành vĩ mô của Nhà nước lẫn cấp độ quản trị doanh nghiệp) bắt nguồn từ sai lầm trong tư duy kinh tế về mô hình tăng trưởng là lạm phát tăng, kinh tế suy thoái, hệ thống doanh nghiệp suy yếu trầm trọng, và hệ thống tài chính đối diện nhiều rủi ro lớn, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn mang tính hệ thống… Tuy nhiên, có thể khẳng định, những yếu kém này, không phải chỉ hình thành từ năm 2009 cho tới nay, mà đã xuất hiện từ giai đoạn trước đó và chỉ bộc lộ rõ rệt khi tất cả những yếu kém trong nền kinh tế cùng xuất hiện. Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020 đã nhận định “việc kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế chưa thực sự bền vững… bội chi ngân sách còn cao… đóng góp của khu vực kinh tế trong nước vào tăng truơngr xuất khẩu thấp… chất lượng tín dụng chưa cao… thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản phát triển chưa đồng bộ, phục hồi chậm và còn tiềm ẩn rủi ro”.

Hệ quả của những yếu kém kể trên là ngoại trừ sự phục hồi nhẹ nhờ chính sách kích cầu của Chính phủ năm 2009 và 2010, nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong xu thế suy giảm kể từ năm 2008 cho tới nay. Kể từ sau giai đoạn 2005 - 2007 với mức tăng trưởng bình quân gần 7,2%/năm (theo giá so sánh 2010) thì cho tới năm 2014, chưa năm nào tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức trên 6,5%/năm. Trong khi đó, kinh tế


các nước trên thế giới, khu vực các nền kinh tế mới nổi tại châu Á, và các quốc gia trong khu vực ASEAN đều chứng kiến sự phục hồi nhất định (xem hình 2.4). Báo cáo “Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020” đã nhận định “kinh tế phục hồi còn chậm, tăng trưởng chưa đạt chỉ tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp. Khoảng cách phát triển so với các nước trong khu vực còn lớn… Chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp, cải thiện còn chậm; công nghệ sản xuất phần lớn còn lạc hậu. Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng còn hạn chế, hệ số sử dụng vốn (ICOR) còn cao. Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ”.

Hình 2.4: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, một số nước trong khu vực, khu vực ASEAN - 51 và thế giới

15%


10%


5%


World

Eme & dev Asia

ASEAN-5

Cambodia

China

Indonesia

Lao P.D.R.

Malaysia

Myanmar

Philippines

Thailand

Vietnam

0%


Trước kh ủng hoảng (2001 - 2007) Trong khủng hoảng (2008 - 2011)

Sau khủng hoảng (2012 - 2015)


Nguồn: World Economic Outlook, IMF

Rõ ràng, sự suy giảm kinh tế của Việt Nam không còn là nguyên nhân từ phía bên ngoài mà nằm chủ yếu từ những yếu kém, bất ổn bên trong nền kinh tế. Tăng trưởng GDP vẫn theo xu hướng quý sau cao hơn quý trước nhưng mức tăng trưởng này vẫn thấp hơn so với kế hoạch được Chính phủ và Quốc hội thông qua, đặc biệt là việc đạt được kế hoạch tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015. Đáng lo ngại hơn cả là giai đoạn trì trệ này đã kéo dài được hơn 3 năm, kể từ quý 3 năm 2011 cho tới năm 2014, cho thấy nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi vùng đáy của đồ thị tăng trưởng chậm chập. Thực trạng này phản ánh những nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế, tìm kiếm lại thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ như trước đây chỉ có tác dụng trong ngắn hạn chứ chưa tạo ra những bước tiến có tính chất đột phá. Báo cáo “Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và phương hướng


1 ASEAN - 5 gồm 5 quốc gia: Indonesia, Malaysia, Philippines, Thailand, và Vietnam.


nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020” đã nhận định “thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Mô hình tăng trưởng còn chưa đủ rõ. Phát triển kinh tế phụ thuộc nhiều vào vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp”.

b/ Những thay đổi trong điều hành chính sách kinh tế của Việt Nam

Nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới về tư duy kinh tế, về mô hình tăng trưởng (thay vì chỉ giải quyết về mặt hiện tượng như đã làm đối với giai đoạn trước) đã được các cấp chính trị và toàn thể xã hội đồng thuận thực hiện. Từ năm 2011 cho tới nay, thay đổi về tư duy điều hành chính sách đã được thể hiện rõ trong các mục tiêu tại Nghị quyết của Chính phủ như từ mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô đã được nhận diện là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách (Nghị quyết số 11/NQ-CP năm 2011); chuyển sang ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế… (Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2012); và tiếp tục khẳng định tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô… đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng (Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2013); tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tăng trưởng hợp lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế (Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2014); tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực hiện mạnh mẽ các đột phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phấn đấu tăng trưởng cao hơn năm 2014 (Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2015).

Dù vậy, những sai lầm về mặt chính sách (và quá trình nhận thức chưa kịp thời) cùng với khó khăn từ bên ngoài (suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu, khủng hoảng nợ công tại Châu Âu, và sự tăng trưởng chậm lại của những đầu tàu kinh tế tại Châu Á) đã khiến hệ thống doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung phải hứng chịu những hệ lụy không mong đợi. Sự chấp nhận đánh đổi giữa kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải thực hiện các giải pháp mang tính “sốc” đối với hệ thống doanh nghiệp và hệ thống tài chính [7]. CSTT thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát đã gây nên căng thẳng thanh khoản tại các NHTM, dẫn tới sự ngưng trệ nguồn vốn tín dụng cấp cho hệ thống doanh nghiệp. Nguồn vốn tín dụng bị hạn chế, lãi vay tăng cao trong khi các chủ thể kinh tế điều chỉnh lại hành vi đầu tư và tiêu dùng (kết quả của suy giảm kinh tế, triển vọng kinh tế tiêu cực, và thay đổi về tư duy) đã khiến cho hệ thống doanh nghiệp phải đối mặt với khó khăn kép (nguồn vốn đầu vào và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra).


Đổi mới mô hình tăng trưởng được hiểu là quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng dựa vào chiều sâu trên cơ sở nâng cao hiệu quả tăng trưởng. Điều này đòi hỏi cần phải có giải pháp nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực theo hướng tập trung vào khoa học - công nghệ và nguồn lao động có chất lượng cao. Muốn vậy, tái cơ cấu nền kinh tế là nhiệm vụ thiết yếu để nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế. Trên cơ sở đó, quá trình thực hiện tái cấu trúc kinh tế Việt Nam bao gồm ba trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công dựa trên Chỉ thị 1792/CT-TTg về tăng cường quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ, tái cơ cấu hệ thống TCTD theo Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015, và tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước theo Đề án Tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015. Đây là những quyết sách đúng đắn mà Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội đã lựa chọn, hướng tới một nền kinh tế phát triển bền vững, bảo đảm an sinh xã hội.

Tuy vậy, quá trình tái cơ cấu mới chỉ đem lại những kết quả bước đầu, chưa thực sự có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, đồng thời nó đòi hỏi cần có thời gian và nguồn lực để xử lý dứt điểm những yếu kém, vốn dĩ là hệ lụy để lại của giai đoạn trước. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn vướng mắc, chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù vậy, quan điểm về tăng trưởng chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, tập trung vào nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực là quan điểm đúng đắn đối với mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế. Quyết định số 339/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 – 2020” một lần nữa khẳng định quyết tâm của các cấp chính trị và toàn thể xã hội trong công cuộc cải cách căn bản nền kinh tế Việt Nam. Báo cáo “Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế

- xã hội 5 năm 2016 – 2020” đã nhận định mục tiêu tổng quát là “Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh” và đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu “Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển nhanh, bền vững trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Kết hợp hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh… Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả Đề án tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế và


cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực… Kết hợp hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh… Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả Đề án tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực”..

2.1.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với điều hành chính sách tiền tệ

Trên cơ sở phân tích bối cảnh kinh tế vĩ mô Việt Nam và các mục tiêu kinh tế - xã hội do Chính phủ đề ra, một số yêu cầu cấp bách đối với công tác điều hành CSTT của NHNN trong giai đoạn 2011 - 2015 bao gồm:

Thứ nhất, về định hướng điều hành và mục tiêu cuối cùng của CSTT, công tác điều hành CSTT của NHNN phải hướng tới mục tiêu kiềm soát lạm phát ở mức hợp lý và ổn định, tạo dựng nền tảng quan trọng cho ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả huy động và phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế. Điều này đòi hỏi tỷ lệ lạm phát thấp phải được duy trì không chỉ trong ngắn hạn mà trong cả trung và dài hạn, khắc phục triệt để tình trạng theo đuổi mục tiêu ngắn hạn như tăng trưởng kinh tế và bỏ rơi mục tiêu dài hạn.

Thứ hai, về lựa chọn mục tiêu trung gian của CSTT, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn điều hành tại Việt Nam cho thấy cung tiền và tín dụng chưa hẳn là mục tiêu cần đạt được khi muốn kiểm soát lạm phát. Hơn nữa, việc đặt ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm, và cố gắng đạt được mục tiêu này, tự bản thân nó đã tạo áp lực không nhỏ lên điều hành CSTT của NHNN nói riêng và toàn hệ thống ngân hàng nói chung trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế (tín dụng là kênh cung ứng vốn chủ yếu). Khi diễn biến lạm phát đi vào ổn định, việc lựa chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian trong điều hành CSTT là một gợi ý cần được xem xét áp dụng. Tiến tới, NHNN cần xóa bỏ các biện pháp hành chính về lãi suất để tiến tới kiểm soát hoàn toàn theo giá, hoàn thiện công cụ lãi suất chỉ đạo của NHNN và hình thành lãi suất chuẩn của Việt Nam.

Thứ ba, về sử dụng các công cụ của CSTT, NHNN cần chủ động, linh hoạt, và kịp thời trong việc sử dụng, phối hợp các công cụ, đặc biệt là các loại lãi suất và điều tiết lượng tiền cung ứng. Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô biến động, hệ thống tài chính tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường, việc sử dụng các công cụ mang tính chất hành chính là cần thiết nhằm bảo đảm sự kịp thời và mức độ hiệu quả. Ngoài ra, NHNN cần phối hợp hiệu quả giữa các hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, thị trường ngoại tệ và vàng để điều tiết lượng tiền cung ứng hợp lý trong bối cảnh cùng một lúc phải thực hiện nhiều mục tiêu (gia tăng dự trữ ngoại hối bảo đảm thanh khoản hệ thống, kiểm soát lạm phát). Tuy nhiên, để hạn chế dần và tiến tới loại bỏ các công cụ có tính hành

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/12/2022