Nâng Cao Chất Lượng Thẩm Định Cho Vay Lại Vốn Oda


Thứ nhất, Rà soát cắt giảm các chi phí không trọng yếu

Tác giả cho rằng, VDB cần thực hiện phương thức cải tiến liên tục, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận từ hoạt động cho vay lại vốn ODA, từ đó cắt giảm các chi phí không cần thiết để nâng cao kết quả tài chính. Khoản thu từ hoạt động này chủ yếu là chênh lệch lãi suất cho vay lại vốn ODA (theo hình thức VDB chịu RRTD), khoản thu phí quản lý được hưởng (VDB không chịu RRTD), khoản cấp bù từ NSNN và các khoản khác. Khoản chi phí chủ yếu là chi phí dự phòng RRTD (VDB chịu RRTD), chi phí trực tiếp liên quan đến cho vay lại vốn ODA và các chi phí hoạt động từ các bộ phận liên quan phân bổ cho hoạt động này. Thực hiện phương thức cải tiến liên tục đòi hỏi VDB cần phân tích các chi phí trực tiếp ảnh hưởng, từ đó xem xét một cách toàn diện và đánh giá những khoản chi phí nào có thể giảm bớt hoặc lược bỏ. Trên cơ sở đó, đảm bảo tăng cường hiệu quả tài chính từ hoạt động cho vay lại vốn ODA. Ban Quản lý vốn nước ngoài của VDB là đầu mối và bộ phận chính, trực tiếp thực hiện giải pháp này. Ban lãnh đạo VDB cần phân quyền và quy định trách nhiệm cụ thể đến từng cán bộ, nhân viên phòng này. Quy định nội dung và phương thức phân tích dữ liệu để đảm bảo toàn bộ chi phí được xem xét đến và cắt giảm những chi phí không cần thiết.

Thực trạng chi phí liên quan đến cho vay lại vốn ODA giai đoạn 2012 - 2017 của VDB cho thấy để thực hiện giải pháp này: (1) cần kết hợp với giải pháp phân loại nợ và trích lập dự phòng đã trình bày ở mục 3.2.3 để tối ưu hóa chi phí dự phòng rủi ro cho vay lại vốn ODA; (2) trong các yếu tố chi phí ảnh hưởng đến thặng dư cho vay lại: (i) Chi phí nhân viên phát sinh khá lớn, vì vậy VDB cần nghiên cứu phân tích công việc và xây dựng bản đề án vị trí việc làm để tối ưu hóa chi phí nhân viên; (ii) nghiên cứu tối ưu hóa chi phí quản lý và công vụ như công tác phí, chi phí giao dịch đối ngoại, vật liệu, văn phòng phẩm…; (iii) kiểm soát các khoản chi phí khác để tránh sự biến động quá lớn giữa các năm (theo báo cáo thường niên các năm từ 2012 đến 2015, chi phí khác của toàn VDB lần lượt là 27 tỷ, 526 tỷ, 210 tỷ, 15 tỷ [36]); (3) cần phân bổ chi phí quản lý chung dựa trên thực tế huy động nguồn lực để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ chứ không chỉ dựa trên một số tiêu chí cố định.


Thứ hai, Mở rộng cho vay lại vốn ODA theo hình thức VDB chịu RRTD

Có thể thấy trong giai đoạn qua, cho vay lại vốn ODA theo hình thức VDB chịu RRTD bị giảm sút quy mô đáng kể. Như vậy, cho vay lại vốn ODA, Nhà nước phải chịu RRTD mà không chia sẻ khoản rủi ro này cho cơ quan cho vay lại. VDB cần kiến nghị với Chính phủ về quan điểm chia sẻ rủi ro để mở rộng hình thức cho vay lại vốn ODA này.

Việc đề xuất mở rộng cho vay lại vốn ODA theo hình thức VDB chịu RRTD, chủ yếu theo chương trình hạn mức tín dụng và các quỹ quay vòng. Bên cạnh được hưởng chênh lệch lãi suất cho vay lại, còn giúp VDB chủ động lựa chọn dự án để nâng cao hiệu quả cho vay lại vốn ODA. VDB chủ động đánh giá các dự án đủ điều kiện vay vốn, đảm bảo khả năng trả nợ vốn vay, tăng cường trách nhiệm của VDB đối với việc cho vay lại nguồn vốn này. VDB xác định điều kiện tín dụng phù hợp với các lĩnh vực, ngành nghề, phù hợp với quy định của nhà tài trợ, thẩm định, duyệt vay dự án, chịu rủi ro tín dụng. Thông qua cho vay lại theo hình thức này, sẽ tăng cường hiệu quả của dự án do rút ngắn được thời gian thực hiện các thủ tục vận động ODA, đồng thời làm giảm gánh nặng trả nợ nước ngoài của NSNN trong trường hợp dự án phát sinh nợ quá hạn.

Hiệu quả tài chính sẽ được đảm bảo khi VDB thực hiện mở rộng cho vay lại vốn ODA theo hình thức này. VDB được hưởng chênh lệch lãi suất ở mức khoảng từ 0,3%/năm đến 1%/năm và các khoản khác theo quy định hiện hành. Mức chênh lệch lãi suất tối đa 1%/năm được xác định trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế do chuyên gia WB cung cấp, mức lãi suất vốn vay ODA quy chuẩn hàng năm và thực tế thí điểm cho vay lại qua cơ quan cho vay lại chịu rủi ro tín dụng thời gian qua.

Thứ ba, Tăng cường quan hệ hợp tác, tận dụng và mở rộng cho vay lại vốn ODA thông thường, VDB không chịu RRTD

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.

Để thực hiện mục tiêu tập trung vốn ODA và vốn vay nước ngoài quản lý thông qua VDB, đảm bảo tăng trưởng vốn ODA cả về số lượng và chất lượng thì VDB cần phải khẳng định được vai trò của mình trong công tác quản lý ODA. Các dự án đầu tư sử dụng ODA và vốn vay nước ngoài phải phát huy hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việc Chính phủ, cộng đồng các


Nâng cao hiệu quả cho vay lại vốn ODA tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam - 23

nhà tài trợ công nhận và đánh giá cao vai trò của mình sẽ giúp VDB tạo ra các bước đột phá trong công tác quản lý vốn ODA, ảnh hưởng tích cực đến hoạt động, chức năng nhiệm vụ và tạo tiền đề cho xây dựng chiến lược phát triển bền vững. Thực hiện thành công các dự án ODA cho vay lại là tiền đề, cơ sở pháp lý cũng như thực tế để VDB chứng minh năng lực của mình đối với Chính phủ, nhà tài trợ quốc tế, từ đó thuyết phục Chính phủ giao cho VDB thẩm quyền và quyền tự quyết định nhiều hơn đối với các dự án ODA cho vay lại với quy mô lớn hơn, đa dạng hơn cũng như hỗ trợ VDB tìm kiếm khả năng huy động vốn từ thị trường quốc tế.

Trong mối quan hệ quản lý vốn ODA cho vay lại, Bộ Tài chính là cơ quan ủy quyền cho VDB thực hiện quản lý cho vay lại. Mối quan hệ chặt chẽ giữa Bộ Tài chính và VDB là cơ sở để tận dụng và mở rộng hoạt động cho vay lại vốn ODA thông thường, VDB không chịu RRTD, đảm bảo mục tiêu sử dụng vốn ODA một cách có hiệu quả. Sau khi khoản vay đã hoàn tất ký kết hiệp định hoặc thỏa thuận vay vốn với nhà tài trợ, Bộ Tài chính sẽ xây dựng cơ chế tài chính cho khoản vay và thực hiện ủy quyền việc quản lý cho vay lại cho VDB. Việc Bộ Tài chính thường xuyên hướng dẫn VDB trong công tác quản lý ODA cho vay lại, thực hiện việc kiểm soát chi đảm bảo chặt chẽ và đúng quy định đóng vai trò to lớn trong việc sử dụng ODA một cách có hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế theo đúng hướng. Việc ghi thu, ghi chi, đối chiếu số liệu cũng như tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho dự án đầu tư là một yếu tố quan trọng để quản lý có hiệu quả vốn ODA cho vay lại.

3.2.5. Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay lại vốn ODA

Thẩm định duyệt vay là việc sử dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích nhằm kiểm tra, đánh giá chính xác tính khả thi, tính hiệu quả và phương án trả nợ của dự án ODA nhằm phục vụ cho việc ra quyết định cho vay lại. Trong cho vay lại vốn ODA, thẩm định duyệt vay là khâu rất quan trọng trong toàn bộ quy trình tín dụng. Qua khâu thẩm định, VDB sẽ phân tích, đánh giá được mức độ tin cậy của dự án ODA và mức độ rủi ro của dự án khi quyết định cho vay. Mặc dù VDB đã cụ thể hóa nghiệp vụ thẩm định dự án vay vốn ODA và vốn vay nước ngoài trong văn bản số 1771/NHPT-TĐ ngày 24/7/2017, tuy nhiên công tác thẩm định duyệt vay của


VDB thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập. Để nâng cao hiệu quả cho vay lại vốn ODA thì VDB cần chú trọng nâng cao chất lượng thẩm dịnh dự án ODA trên cơ sở tổ chức lại bộ máy, hoàn thiện quy trình và nội dung thẩm định.

Việc áp dụng giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định cũng cần lưu ý đến phạm vi áp dụng đối với từng hình thức cho vay lại ODA:

- Đối với hình thức VDB không chịu rủi ro tín dụng. VDB không phải thực hiện việc thẩm định mà nhận kết quả thẩm định từ Bộ Tài chính thông qua Hội đồng thẩm định liên ngành (gồm các nhà nghiên cứu, các cơ quan chủ quản liên quan, các đối tượng có quyền lợi và trách nhiệm liên quan). Tuy nhiên, VDB phải đánh giá hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án, vì vậy VDB dựa trên các nội dung này để cung cấp thông tin cho Chính phủ làm cơ sở ra quyết định cho vay.

- Đối với hình thức, VDB chịu rủi ro tín dụng. VDB thẩm định tất cả các nội dung cả về hiệu quả tài chính, khả năng trả nợ và nội dung về hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư. Trên cơ sở kết quả thẩm định, VDB có thẩm quyền ra quyết định cho vay lại hoặc quyết định từ chối cho vay lại.

Thứ nhất, Về tổ chức và quy trình thẩm định dự án ODA

Để đảm bảo tính khách quan của kết quả thẩm định, VDB cần phân định rõ nhiệm vụ thẩm định dự án ODA, yêu cầu bộ phận này phải độc lập với bộ phận tiếp nhận hồ sơ, quản lý cho vay lại và quản lý rủi ro cho vay lại ODA. Bộ phận này trực thuộc Ban thẩm định chứ không phải ở cả ở cả hai bộ phận là Tín dụng và Thẩm định như hiện nay. Quy định mỗi cán bộ thẩm định sẽ chịu trách nhiệm thẩm định một nội dung nhất định để đảm bảo thông tin thu thập và cập nhật trên từng lĩnh vực và có thể tư vấn cho dự án khi cần thiết.

Tiếp tục thực hiện quy trình thẩm định hai giai đoạn, bao gồm thẩm định sơ bộ về chủ đầu tư và thẩm định kỹ lưỡng về phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay của dự án. Ở giai đoạn thẩm định sơ bộ, VDB cần xem xét, đánh giá khả năng cân đối vốn để giải ngân cho dự án, đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn của dự án theo đúng tiến độ đầu tư. Kết quả thẩm định sơ bộ là cơ sở để VDB đưa ra các phán quyết về mức vốn và thời hạn cho vay lại ở giai đoạn hai của quy trình thẩm định.


Thứ hai, Hoàn thiện nội dung thẩm định hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án.

Đây là nội dung thẩm định quan trọng đối với VDB để đánh giá dự án ODA một cách toàn diện. Trên cơ sở các đóng góp của dự án đối với nền kinh tế đã được chủ đầu tư liệt kê trong hồ sơ dự án, cần tính toán được các lợi ích và hao phí xã hội của dự án. Việc thẩm định cần lưu ý một số nội dung quan trọng sau đây:

+ Về xác định và lượng hóa các chỉ tiêu lợi ích và hao phí xã hội

Trên cơ sở xác lập hệ thống tiếp cận dự án (theo ngành, địa phương hoặc toàn bộ nền kinh tế) để xác định các yếu tố đầu vào và đầu ra của dự án. Tập hợp các đầu vào và đầu ra có tính gia tăng hay không gia tăng đối với xã hội khi có so với khi không có dự án. Loại bỏ các hạng mục chuyển giao là các khoản thanh toán được thực hiện giữa chủ thể thực hiện dự án với các tổ chức khác trong nền kinh tế mà không làm thay đổi giá trị tài sản của nền kinh tế. Điều chỉnh các hạng mục dựa trên các mối liên kết. Mỗi dự án ODA luôn tạo ra các liên kết, tác động giữa các ngành, vùng, địa phương, doanh nghiệp thông qua hai nhóm: (i) liên kết đầu vào của dự án khi đầu vào của dự án là đầu ra của địa phương nên nó thúc đẩy sản xuất và mang lại lợi ích cho cả hai bên và (ii) liên kết đầu ra của dự án khi đầu ra của dự án là sản phẩm được tiêu thụ tại địa phương làm chi giá cả thị trường tại đó thay đổi hoặc đầu ra của dự án là đầu vào của các nhà sản xuất tại địa phương. Cuối cùng, các ảnh hưởng ngoại lai của dự án là các tác động gây ra thiệt hại (hao phí) hoặc đem lại lợi ích cũng phải được tính đến với hai nhóm tác động chủ yếu là tác động môi trường và tác động xã hội.

+ Định giá kinh tế các chỉ tiêu lợi ích và hao phí xã hội của dự án.

Xét trên quan điểm xã hội, giá thị trường có thể bị “bóp méo” bởi các chính sách kinh tế nên không phản ánh thực tính khan hiếm và chi phí cơ hội khi sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế. Để tính toán hiệu quả kinh tế thực thì phải sử dụng giá kinh tế. Để đơn giản thì VDB nên xác định giá kinh tế theo giá thị trường trong nước với các hệ số chuyển đổi tính toán cho toàn bộ nền kinh tế.

+ Về lãi suất chiết khấu.

Các chỉ tiêu lợi ích và hao phí của dự án ODA được xác định cho từng năm trong suốt vòng đời của dự án đầu tư. Do tác động của nguyên tắc “giá trị theo thời


gian của tiền”, khoản mục giá trị gia tăng mà dự án tạo ra phải được tính toán tại một thời điểm trên cơ sở so sánh giữa phần thu về phần chi ra cho dự án, do vậy các giá trị này sẽ được chiết khấu về một thời điểm (thường là hiện tại) theo một công cụ là lãi suất chiết khấu. Do bản chất khó tính toán của lãi suất chiết khấu kinh tế nên lãi suất này thường được giả định dựa trên kinh nghiệm hoặc khuyến nghị của các tổ chức tài chính quốc tế. Trường hợp này, VDB cũng nên đánh giá độ co giãn của lãi suất này để đảm bảo phù hợp khi các điều kiện của dự án thay đổi.

Thứ ba, Đánh giá rủi ro bằng phương pháp phân tích kịch bản

Dự án sử dụng vốn ODA cho vay lại là những dự án có quy mô lớn, thời gian thực hiện dài, đáp ứng mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội và có khả năng hoàn vốn nên tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Các rủi ro có thể được chia thành các nhóm như là:

Rủi ro về cơ chế chính sách: dự án bị tác động bởi những bất ổn về tài chính, chính sách ở nơi dự án triển khai như là các chính sách thuế mới, quy định về thanh toán và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến dòng tiền của dự án. Một số dự án ODA nhận được sự hỗ trợ lớn từ các cơ quan quản lý nhà nước nên chủ đầu tư thường có tâm lý không chú trọng vào hiệu quả của dự án làm ảnh hưởng đến dòng tiền của dự án.

Rủi ro thị trường: không đủ nguồn nguyên liệu đầu vào đáp ứng công suất của máy móc thiết bị; nguồn nguyên liệu đầu vào không đảm báo số lượng, chất lượng và giá cả như dự kiến hoặc nhu cầu thực tế không phù hợp với sản lượng do dự án sản xuất ra nên dự án không thể triển khai quá trình sản xuất như dự kiến ban đầu để có thể tạo ra dòng tiền ổn định và đảm bảo khả năng trả nợ.

Rủi ro kỹ thuật và vận hành: do năng lực và nguồn nguyên liệu không phù hợp với công suất của máy móc thiết bị, công nghệ không phù hợp với mục tiêu của dự án… nên dự án không thể vận hành theo các thông số thiết kế ban đầu.

Rủi ro giai đoạn triển khai: các hạng mục của dự án hoàn tất không đúng hạn hoặc không phù hợp với các thông số, tiêu chuẩn ban đầu do chi phí xây dựng phát sinh quá lớn so với ngân sách dự kiến hoặc do dự án phụ thuộc vào kết quả của nhiều dự án khác nên nếu các dự án kia chưa hoàn thành thì giai đoạn thực hiện và vận hành của dự án bị trì hoãn.


Rủi ro môi trường và xã hội: hao phí về môi trường và xã hội phát sinh quá lớn so với lợi ích xã hội…

Khi VDB thẩm định hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án thì các kết quả trên chỉ đúng trong trường hợp dự án không gặp phải các rủi ro trên. Do vậy, việc VDB dự đoán, đo lường và đánh giá các rủi ro xảy ra đối với các dự án khi thẩm định là rất quan trọng nhằm mục đích tăng tính khả thi của trường hợp cơ sở thông qua chủ động có các biện pháp để phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro.

Theo phương pháp phân tích kịch bản, ba kịch bản của dự án với xác suất tương ứng xảy ra từng kịch bản sẽ được xác định để đánh giá rủi ro cho dự án, gồm kịch bản tốt nhất, kịch bản trung bình và kịch bản xấu nhất. Trên cơ sở đó, các chỉ tiêu NPV trung bình kỳ vọng (NVP), phương sai (var), độ lệch chuẩn (SD) và hệ số phương sai (CV) sẽ được tính toán. Phương pháp phân tích kịch bản mặc dù đã tính đến xác suất xảy ra các tình huống chứ không phải chỉ ước lượng chủ quan nhưng cũng mới chỉ tính đến ba tình huống rời rạc, trong khi đó trên thực tế có vô số các tình huống có thể xảy ra. Để khắc phục nhược điểm này, việc phân tích cần xác định cụ thể phân phối xác suất của các yếu tố bất định quan trọng, xác định cụ thể mối tương quan giữa các yếu tố cấu thành dự án, trên cơ sở đó tính NPV kỳ vọng và phân phối xác suất của NPV này. Tính toán như vậy gọi là đo lường rủi ro theo phương pháp mô phỏng Monte Carlo. Phương pháp này đòi hỏi một hệ thống phần mềm đo lường được tất cả các tình huống theo yêu cầu của phân tích, xác định được hàm phân phối xác suất của các biến số và mối tương quan giữa các hàm này nên đòi hỏi cán bộ thẩm định có kiến thức về toán, thống kê và sự hỗ trợ của hệ thống máy tính hiện đại.

Thứ tư, Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định.

Một trong những yếu tố tác động đến chất lượng của công tác thẩm định là hệ thống thông tin hỗ trợ cho công tác này. Một hệ thống thông tin đầy đủ và chính xác sẽ giúp cán bộ thẩm định tiết kiệm được chi phí về thời gian và vật chất. Hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án ODA bao gồm các nhóm thông tin chính sau đây:


+ Thông tin về chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã được Quốc hội và Chính phủ phê duyệt;

+ Thông tin về các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quản lý Nhà nước, các tập đoàn, tổng công ty (Luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, quyết định, công văn…) liên quan đến đầu tư phát triển, tín dụng đầu tư, thực hiện các nghĩa vụ tài chính, chỉ tiêu kỹ thuật. Đây là nguồn thông tin quan trọng, đòi hỏi phải được cập nhật thường xuyên, liên tục và trình bày có hệ thống về cơ quan ban hành, thời gian, nội dung, ngành, lĩnh vực, vùng, miền;

+ Thông tin về chủ trương, chính sách của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc VDB liên quan đến công tác thẩm định nói riêng và cho vay lại ODA.

+ Thông tin về thị trường hàng hóa trong và ngoài nước. Thông tin về thị trường công nghệ, thị trường tài chính và thị trường lao động. Các yếu tố làm biến động các thị trường này;

+ Thông tin về các phương pháp, công cụ, phần mềm hiệu quả và hiện đại được sử dụng trong công tác thẩm định dự án;

+ Thông tin về các dự án đã hoàn thành (thành công, thất bại, bài học …).

Hệ thống thông tin phục vụ hoạt động quản lý của ngân hàng có vai trò quan trọng nên cần phải được xây dựng, cập nhật thường xuyên và hoàn thiện. VDB có thể thành lập một bộ phận riêng đảm nhiệm việc cập nhật và quản lý hệ thống này hoặc giao cho từng cán bộ thẩm định cập nhật thông tin liên quan đến lĩnh vực họ thẩm định, sau đó sẽ chuyển những thông tin thu thập được về bộ phận quản lý thông tin để tập hợp và phân loại, khi cần họ sẽ kết nối vào hệ thống này để tra cứu.

Thứ năm, Thiết lập mạng lưới chuyên gia, tăng cường hợp tác trong thẩm định dự án ODA.

Các ODA thường có quy mô lớn và phức tạp, khi VDB thẩm định nên hợp tác với các tổ chức chuyên ngành độc lập hoặc thuê các công ty tư vấn có uy tín trong và ngoài nước. Giải pháp này không chỉ giúp cho cán bộ thẩm định của ngân hàng tiếp cận được với các kinh nghiệm thẩm định tiên tiến bằng con đường ngắn nhất mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với dự án vì khi đó dự án sẽ được đánh giá

Xem tất cả 217 trang.

Ngày đăng: 27/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí