Kiên Định Điều Hành Chính Sách Tiền Tệ Theo Hướng Kiểm Soát Lạm Phát, Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô Gắn Với Ổn Định Tài Chính


chiếm dụng của đối tác từ số tiền phải trả nếu thanh toán ngay và số tiền trả chậm, chi phí của nguồn vốn này cao hơn nhiều so với lãi vay ngân hàng, ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng sinh lời. Hơn nữa, nguồn vốn này không có tính lâu dài, dễ biến động do người bán hàng có thể dừng cấp tín dụng đối với doanh nghiệp, người mua có quyền đòi lại tiền đã ứng trước.

Ngoài ra, việc quá phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng đã khiến cho các doanh nghiệp thiếu đi sử chủ động và linh hoạt trong việc thay đổi cơ cấu nguồn vốn cho phù hợp năng lực tài chính và điều kiện thị trường. Tất cả các doanh nghiệp, dù là quy mô lớn hay nhỏ, năng lực tài chính thấp hay cao… đều có cơ cấu vốn dựa chủ yếu vào tín dụng ngân hàng. Điều này khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trở nên quá phụ thuộc vào khả năng cấp tín dụng, lãi suất cho vay và quy mô tín dụng từ phía ngân hàng, và rộng hơn là nhạy cảm với công tác điều hành CSTT của NHNN.

Xuất phát từ những hạn chế này, hệ thống doanh nghiệp cần có các biện pháp điều chỉnh lại cơ cấu nguồn vốn phù hợp theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu và trái phiếu doanh nghiệp, giảm dần sự lệ thuộc vào nguồn vốn tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Cấu trúc vốn được coi là phù hợp cho doanh nghiệp khi làm cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro, làm tối thiếu hóa chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp qua đó làm tăng giá trị ròng. Nhà quản trị tài chính doanh nghiệp có thể thiết lập một cấu trúc vốn phù hợp dựa trên cơ sở định tính và định lượng những nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp cũng như ảnh hưởng của cấu trúc vốn đến khả năng sinh lời và rủi ro của doanh nghiệp. Điểm nhấn ở đây là việc đa dạng hóa các nguồn vốn huy động nhằm giúp cho doanh nghiệp không bị quá phụ thuộc vào một vài nguồn vốn, tăng cường tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Để khắc phục thực trạng thiếu đa dạng hóa nguồn vốn, DNNVV cần xem xét huy động vốn từ các nguồn khác như từ thuê tài chính; phát hành trái phiếu, cổ phiếu; nguồn vốn góp từ các quỹ đầu tư mạo hiểm; từ quỹ hỗ trợ doanh nghiệp… Một số biện pháp cơ bản cần được triển khai là: (i) nâng cao năng lực hoạch định cơ cấu vốn của ban lãnh đạo doanh nghiệp thông qua trang bị kiến thức cơ bản về cơ cấu vốn; (ii) nâng cao năng lực hoạch định, thực hiện và cập nhật cơ cấu vốn thực tế trên cơ sở so sánh với cơ cấu vốn mục tiêu; (iii) tăng cường mức độ minh bạch về thông tin của doanh nghiệp để thu hút các nguồn vốn đầu tư phù hợp, kể cả từ các quỹ đầu tư mạo hiểm trong trường hợp phù hợp với chiến lược phát triển của doanh nghiệp; (iv) nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thực hiện nghiêm túc các cam kết với nhà tài trợ vốn…


3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.3.1. Nâng cao tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước

Lý thuyết kinh tế cũng như các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới đã cho thấy mức độ độc lập của NHTW có quan hệ cùng chiều với mức độ hiệu quả trong điều hành CSTT. Vị thế độc lập tạo điều kiện cho NHTW chủ động trong việc lựa chọn mục tiêu, xây dựng và đưa ra quyết định các chính sách, thực hiện các biện pháp điều hành CSTT, can thiệp vào các thị trường tín dụng, ngoại hối mà không bị giới hạn hay phải phụ thuộc vào các mục tiêu khác. Ngoài ra, nâng cao tính độc lập của NHTW sẽ làm giảm độ trễ trong quá trình ra quyết định CSTT khi không phải chờ đợi ý kiến cho phép, phản hồi từ các đơn vị quản lý cấp cao hơn, giúp CSTT phản ứng kịp thời hơn với những diễn biến của nền kinh tế vĩ mô với những công cụ được thực thi với thời điểm và liều lượng phù hợp. Trái lại, việc NHTW không có sự độc lập, việc điều hành CSTT thường hay bị chậm trễ, giật cục, liên tục đổi chiều các mục tiêu do chịu ảnh hưởng từ phía Chính phủ.

Việc nâng cao tính độc lập cho NHNN ở đây không nhất thiết phải là độc lập về mô hình tổ chức hoặc độc lập trong việc xác định mục tiêu CSTT mà còn là độc lập hoàn toàn (cả về mặt pháp lý và thực tế) trong việc sử dụng các công cụ để đạt được mục tiêu của CSTT. Khi đó Thống đốc được quyền chủ động lựa chọn và điều hành các công cụ CSTT, độc lập, tự chủ hơn trong việc đưa ra các quyết định chính sách.

Mức độ độc lập của một NHTW được chia thành độc lập hoạt động (operational independence) và độc lập mục tiêu (target independence). Hiện tại, phân loại mức độ độc lập của NHNN là độc lập hoạt động chứ không phải là độc lập mục tiêu. Hàng năm, NHNN xây dựng chỉ tiêu lạm phát để Chính phủ trình Quốc hội quyết định; Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu CSTT quốc gia theo quy định của Chính phủ. Xuất phát từ thực tế hiệu quả hoạt động của NHTW tăng lên cùng với mức độ độc lập, NHNN cần được tăng cường hơn nữa mức độ độc lập như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

NHNN được trao quyền hơn nữa trong việc hoạch định các mục tiêu và điều hành CSTT, chỉ phải trình Quốc hội phê duyệt.

NHNN toàn quyền trong việc thực hiện các mục tiêu này, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về các kết quả điều hành CSTT theo mục tiêu đề ra.

Truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 25

NHNN toàn quyền quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung vào lưu thông hàng năm theo yêu cầu điều hành xuất phát từ các mục tiêu kinh tế vĩ mô được Quốc hội phê duyệt.

NHNN không bị các cơ quan khác của Chính phủ can thiệp vào quá trình thực thi CSTT và tùy ý sử dụng các công cụ CSTT để đạt được mục tiêu đã đề ra.


Tuy nhiên, cũng cần nâng cao tính minh bạch và bảo đảm khả năng giải trình của NHNN đối với các cơ quan giám sát cũng như đối với công chúng về hoạt động của mình. NHNN cần phải chịu sự kiểm toán hàng năm và các đợt thanh tra Nhà nước định kỳ nhằm bảo đảm cơ chế hoạt động hiệu quả cũng như tăng cường tính minh bạch trong giải trình với cơ quan giám sát và công bố thông tin cho công chúng.

Sự độc lập trong điều hành CSTT sẽ giúp NHNN dễ dàng tạo dựng sự ổn định trên thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng, hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô. Qua đó, sự độc lập này bảo đảm một cơ chế truyền tải ổn định hơn, hạn chế được đảo chiều CSTT liên tục mà không bám sát được mục tiêu căn bản là ổn định giá cả, khiến cho các chủ thể tham gia vào kênh tín dụng ngân hàng bị ảnh hưởng tiêu cực (gây ra tình trạng bất cân xứng trong tác động của CSTT tới các chủ thể này và nền kinh tế).

3.3.2. Kiên định điều hành chính sách tiền tệ theo hướng kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô gắn với ổn định tài chính

Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 đã quy định hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn hoạt động ngaan hàng và hệ thống tổ chức tín dụng… Việc theo đuổi các mục tiêu khác như tăng trưởng kinh tế mà bỏ qua mục tiêu ổn định lạm phát thường dẫn đến việc mở rộng cung tiền, tín dụng quá khả năng hấp thụ của nền kinh tế, gây ra lạm phát cao và nhiều bất ổn kinh tế. Tuy nhiên, trong điều kiện hệ thống ngân hàng là chủ thể cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế trong giai đoạn cần vốn co phát triển, việc thực hiện CSTT phải hết sức linh hoạt, không thể chỉ tập trung vào mục tiêu kiểm soát lạm phát mà phải hưởng tới các mục tiêu khác trong khả năng và phạm vi cho phép. CSTT còn có nhiệm vụ quan trọng là ổn định tài chính do những bất ổn trên thị trường tài chính sẽ ảnh hưởng tới khả năng truyền tải chính sách lẫn gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô. Do vậy, dù trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát tốt thì việc điều hành CSTT không nhất thiết chỉ hướng tới mục tiêu tăng trưởng mà còn phải rất thận trọng với mục tiêu ổn định tài chính. Chính phủ cần bám sát nguyên tắc này trong việc điều hành kinh tế vĩ mô, nhằm tạo ra một không gian riêng, chủ động hơn, độc lập hơn và linh hoạt hơn cho CSTT thực hiện mục tiêu quan trọng của mình.

3.3.3. Thiết lập cơ chế phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách giám sát an toàn vĩ mô và vi mô nhằm tối ưu hóa tác động của điều hành chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng

Một mình CSTT là không đủ để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu ổn định vĩ mô, tài chính tiền tệ. Sử dụng các công cụ giám sát an toàn vĩ mô và vi mô giúp hạn chế các tác dụng phụ của việc điều hành CSTT lên hành vi chấp nhận rủi ro trong quá trình


cấp tín dụng của các ngân hàng. Vì thế, CSTT và giám sát an toàn cần có sự phối hợp với nhau để tối ưu hóa ảnh hưởng của từng chính sách lên cơ chế truyền tải CSTT. Bên cạnh đó, việc triển khai mỗi chính sách luôn gặp phải những trở ngại nhất định, chẳng hạn chính sách giám sát an toàn đôi khi không thể triệt tiêu hoàn toàn tác động của các cú sốc về tài chính hay khắc phục hoàn hảo những méo mó trên thị trường tài chính, thậm chí có thể bị các rào cản về chính trị trong quá trình thực hiện. Trong khi đó, CSTT tại những nền kinh tế nhỏ mở cửa thường gặp hạn chế bởi những tác động nằm ngoài khả năng kiểm soát của NHTW như luồng vốn vào ra, giá cả thế giới,… Trong những trường hợp đó, CSTT đôi khi phải “ngược chiều gió” và chấp nhận sự đánh đổi giữa ổn định sản lượng, lạm phát với ổn định tài chính, hoặc chính sách giám sát an toàn vĩ mô đôi khi phải làm thay một phần vai trò của CSTT (IMF, 2013). Trong những giai đoạn căng thẳng về tài chính, việc nới lỏng các quy định giám sát an toàn tài chính theo cơ chế động (dynamic) làm giảm bớt gánh nặng phải điều chỉnh giảm lãi suất của CSTT, nhờ đó giảm được nguy cơ rủi ro đạo đức, bong bóng giá tài sản và giúp cơ chế truyền tải CSTT vận hành êm dịu hơn. Hoặc khi các cú sốc tài chính xảy ra, sự điều chỉnh các công cụ giám sát an toàn vĩ mô giúp công chúng tin hơn vào cam kết của NHTW đối với mục tiêu ổn định giá cả, lạm phát, tạo điều kiện thuận lợi cho sự vận hành của cơ chế truyền tải CSTT.

Việc phối hợp chính sách cũng cần tính đến việc xây dựng cơ chế trao đổi thông tin, phối hợp phân tích giữa các đơn vị liên quan đến hoạch định và thực thi các chính sách này. Cơ chế phối hợp này cần tránh để không ảnh hưởng đến uy tín của mỗi chính sách trong việc đạt được mục tiêu cuối cùng của mình cũng như không ảnh hưởng đến tính độc lập của CSTT. Cơ chế phối hợp hai chính sách cũng cần xem xét đến vấn đề tổ chức thể chế, theo đó chức năng giám sát an toàn vĩ mô có nên là một nhiệm vụ của NHTW hay thuộc về một cơ quan độc lập mà NHTW chỉ đóng vai trò phối hợp? Việc xem xét này là hết sức quan trọng đảm bảo cho sự phối hợp hiệu quả giữa CSTT và chính sách giám sát an toàn vĩ mô trong quá trình đảm bảo ổn định vĩ mô tài chính tiền tệ. Hiện tại, Việt Nam có 3 đơn vị cùng có chức năng giám sát ổn định tài chính gồm: NHNN chịu trách nhiệm về ổn định hệ thống tổ chức tín dụng, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về các công ty tài chính khác như bảo hiểm, công ty chứng khoán, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia có chức năng tham mưu, tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong việc điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm), giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện giám sát chung thị trường tài chính quốc gia. Tuy nhiên, việc phối hợp trao đổi thông tin, đề xuất chính sách nhằm ổn định hệ thống tài chính nói chung giữa 3 cơ quan này chưa


thực sự chặt chẽ. Việc thống nhất chung một đầu mối giám sát an toàn hệ thống tài chính là cần thiết để trên cơ sở đó có sự phối hợp đồng bộ về các biện pháp đảm bảo an toàn thị trường tài chính và phối hợp hiệu quả với điều hành chính sách tiền tệ.

3.3.4. Phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp thành kênh cấp vốn hiệu quả cho nền kinh tế

Chính phủ cần có những giải pháp nhằm phát triển thị trường trái phiếu, bao gồm cả thị trường trái phiếu Chính phủ và doanh nghiệp, nhằm tạo kênh huy động vốn chủ động cho ngân sách và doanh nghiệp thay vì dồn áp lực cấp vốn lên kênh tín dụng. Hiện nay, cả thị trường cổ phiếu và trái phiếu (đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp) của Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh. Thực trạng này được thể hiện qua nhiều vấn đề như quy mô nhỏ, hàng hóa không đa dạng, thiếu hụt hàng hóa có chất lượng, thiếu các thành viên tạo lập thị trường chuyên nghiệp, mức độ minh bạch thông tin và bảo vệ nhà đầu tư thấp…Thị trường trái phiếu phát triển mang lại nhiều ích lợi về cả mặt vĩ mô lẫn vi mô đối với công tác điều hành CSTT.

Thứ nhất, đối với thị trường trái phiếu Chính phủ, thị trường trái phiếu tạo ra một kênh huy động vốn tài trợ cho bội chi ngân sách thay vì tạo áp lực tài trợ lên CSTT - tín dụng như đã đề cập ở trên. Điều này góp phần tạo sự độc lập cho công tác điều hành CSTT của NHNN nhờ hạn chế được thực trạng tài trợ gián tiếp cho các khoản bội chi ngân sách thông qua hoạt động chiết khấu, tái cấp vốn. Việc chủ động kiểm soát lượng cung ứng tiền tệ sẽ làm giảm thiểu nguy cơ dẫn tới lạm phát. Hơn nữa, thị trường trái phiếu phát triển về cả quy mô lẫn mức độ hiệu quả thì chi phí lãi của trái phiếu sẽ giảm xuống, góp phần làm giảm mặt bằng lãi suất chung của nền kinh tế, hạn chế áp lực lên mặt bằng lãi suất tín dụng.

Ngoài ra, thị trường trái phiếu còn có tác dụng cải thiện mức độ hiệu quả truyền tải CSTT và sử dụng các công cụ CSTT, đặc biệt là các công cụ gián tiếp. NHNN và các NHTM sẽ dễ dàng sử dụng trái phiếu Chính phủ cho các hợp đồng mua lại, và thực hiện các nghiệp vụ mua bán để can thiệp trên thị trường mở. Việc tăng cường hiệu quả của thị trường trái phiếu Chính phủ sẽ giúp NHNN tác động được vào các mức lãi suất ngắn hạn trên đường cong lãi suất, từ đó ảnh hưởng tới các mức lãi suất trung dài hạn trên thị trường dễ dàng hơn. Ngoài ra, đường cong lãi suất của trái phiếu Chính phủ được hình thành trên thị trường trái phiếu phát triển là nền tảng để các sản phẩm tài chính hiện đại phát triển, góp phần vào việc tăng cường khả năng quản trị rủi ro của các trung gian tài chính và cung cấp thông tin cho công tác điều hành CSTT.

Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ cần tập trung vào các biện pháp chủ yếu sau: (i) ban hành các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư không phải là các NHTM tham gia vào thị trường trái phiếu Chính phủ, đặc biệt là trên thị trường thứ


cấp; (ii) phát triển và đa dạng hóa trái phiếu về kỳ hạn, lãi suất, phương thức trả lãi… phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư nhưng bảo đảm tính chuẩn hóa của các trái phiếu;

(iii) minh bạch các số liệu về tài khóa và nợ công để bảo đảm nguồn thông tin cho các nhà đầu tư tham gia vào thị trường… Hiện nay, nhà đầu tư chủ yếu vào trái phiếu Chính phủ là các NHTM. Do vậy để đảm bảo tính bền vững của thị trường và tạo sự độc lập cho CSTT, cần tăng cường việc gia tăng cơ sở nhà đầu tư thông qua việc khuyến khích thành lập các quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ đầu tư; đa dạng thêm sản phẩm thu hút các nhà đầu tư khác …

Thứ hai, đối với thị trường trái phiếu doanh nghiêp sẽ giúp hệ thống doanh nghiệp chủ động huy động vốn từ kênh thị trường chứng khoán, giảm sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Trong khi đó, phát hành trái phiếu có thể giúp doanh nghiệp huy động được nguồn vốn dài hạn với giá trị lớn, và có cấu trúc linh hoạt, đáp ứng được các cấu trúc tài chính khác nhau của doanh nghiệp.

Đối với hệ thống NHTM, phát triển thị trường chứng khoán làm tăng mức độ ổn định tài chính và phát triển hệ thống trung gian tài chính thông qua việc gia tăng mức độ cạnh tranh và phát triển cơ sở hạ tầng cho các sản phẩm, dịch vụ tài chính. Thị trường trái phiếu phát triển sẽ làm giảm gánh nặng tài trợ vốn trung dài hạn cho hệ thống doanh nghiệp nhưng đồng thời là buộc các trung gian tài chính phát triển các sản phẩm hay các hình thức tài trợ vốn khác.

Do trong cơ cấu nguồn vốn huy động của hệ thống NHTM hiện nay, nguồn vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng tương đối thấp nhưng lại phải đáp ứng chủ yếu nguồn vốn trung dài hạn cho nền kinh tế, gây ra rủi ro thanh khoản cho hệ thống. Rủi ro thanh khoản do bất cân xứng về kỳ hạn giữa huy động và cho vay của hệ thống ngân hàng cũng giảm xuống nhờ sự phát triển của thị trường trái phiếu.

Tại Việt Nam, hệ thống các thủ tục pháp lý liên quan đến việc phát hành trái phiếu chưa được hoàn thiện, còn nhiều thủ tục rườm rà, rắc rối gây khó khăn cho doanh nghiệp. Mặc dù cơ sở pháp lý cho hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp đang dựa trên Nghị định số 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhưng các thông tư hướng dẫn thực hiện vẫn khá hạn chế (mới chỉ có Thông tư số 211/2012/TT-BTC về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định só 90/2011/NĐ-CP và Thông tư số 17/2013/TT-NHNN về việc hướng dẫn về việc quản lý ngoại hối đối với việc phát hành trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh) nên gây ra những khó khăn, hạn chế cho công tác phát hành trái phiếu. Nhận thức của các nhà đầu tư cá nhân về các sản phẩm trái phiếu của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế nên chỉ tập trung vào các kênh đầu tư phổ biến như tiền gửi tiết kiệm, vàng, bất động sản, cổ phiếu… Hệ thống các nhà đầu tư tổ chức, hệ thống


nhà tạo lập thị trường chưa được thành lập và đi vào hoạt động chuyên nghiệp khiến thị trường không hấp dẫn được nhà đầu tư. Để giải quyết được tình trạng này, cần thực hiện đồng bộ các biện pháp sau:

Thứ nhất, cần đơn giản các thủ tục, thuế, lệ phí phát hành, có chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí phát hành trái phiếu cho doanh nghiệp. Các thủ tục phát hành trái phiếu nên đơn giản hóa, không cần xin phép qua nhiều cấp nhằm giảm thời gian các thủ tục, giúp doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận với nguồn vốn.

Thứ hai, cần tiến hành xây dựng và phát triển mạnh các kênh thông tin về thị trường trái phiếu để cung cấp thông tin cần thiết cho nhà đầu tư như thông tin về trái phiếu, doanh nghiệp, chính sách, chiến lược phát triển, khung pháp lý có liên quan để nhà đầu tư có thể nắm bắt kịp thời. Minh bạch thông tin đóng vai trò quan trọng với sự phát triển của thị trường trong khi nhận thức về trái phiếu doanh nghiệp của doanh nghiệp và công chúng được nâng cao sẽ góp phần tạo nên sự phát triển của thị trường trái phiếu.

Thứ ba, Chính phủ phải xây dựng được một hệ thống nhà tạo lập thị trường có hiệu quả. Hệ thống những nhà tạo lập thị trường sẽ là chất xúc tác, tăng tính thanh khoản cho trái phiếu Chính phủ, và qua đó thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển. Các nhà tạo lập thị trường trái phiếu chủ yếu là các NHTM hoặc các công ty môi giới chứng khoán.

Thứ tư, khuyến khích sự phát triển hệ thống định mức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp có tính độc lập thông qua việc Chính phủ ban hành các văn bản pháp lý tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm thành lập và đi vào hoạt động dưới sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan quản lý Nhà nước.

Thứ năm, khuyến khích các tổ chức tạo lập thị trường nghiên cứu phát triển các sản phẩm trái phiếu với các đặc điểm phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của Việt Nam nhằm tăng cung và đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường.

Về mặt vĩ mô, thị trường trái phiếu Chính phủ còn có tác dụng cải thiện mức độ hiệu quả truyền tải CSTT và sử dụng các công cụ CSTT, đặc biệt là các công cụ gián tiếp. NHNN và các NHTM sẽ dễ dàng sử dụng trái phiếu Chính phủ cho các hợp đồng mua lại, và thực hiện các nghiệp vụ mua bán để can thiệp trên thị trường mở. Ngoài ra, thị trường trái phiếu Chính phủ phát triển về cả quy mô lẫn mức độ hiệu quả thì chi phí lãi của trái phiếu sẽ giảm xuống, góp phần làm giảm mặt bằng lãi suất chung của nền kinh tế thay vì tạo áp lực lên mặt bằng lãi suất như trong thời gian qua.

Về mặt vi mô, phát triển thị trường chứng khoán làm tăng mức độ ổn định tài chính và phát triển hệ thống trung gian tài chính thông qua việc gia tăng mức độ cạnh tranh và phát triển cơ sở hạ tầng cho các sản phẩm, dịch vụ tài chính. Thị trường trái


phiếu phát triển sẽ làm giảm gánh nặng tài trợ vốn trung dài hạn cho hệ thống doanh nghiệp nhưng đồng thời là buộc các trung gian tài chính phát triển các sản phẩm hay các hình thức tài trợ vốn khác. Đường cong lãi suất của trái phiếu Chính phủ là nền tảng để các sản phẩm tài chính hiện đại phát triển, góp phần vào việc tăng cường khả năng quản trị rủi ro của các trung gian tài chính và cung cấp thông tin cho công tác điều hành CSTT của NHNN.

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 01/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí