Từ kết quả phân tích trên đặt ra câu hỏi tại sao tỷ lệ người đóng BHYT tự nguyện thấp, đâu là nguyên nhân và tìm ra giải pháp để nâng cao ý thức người dân trong việc mua và sử dụng BHYT tự nguyện cho các hộ dân.
2.2.3 Tình hình mua/sở hữu thẻ BHYT toàn dân trong các hộ điều tra:
Dựa vào số liệu phân tích tình của việc đóng BHYT tự nguyện ở các quận huyện, có tỷ lệ cao và thấp khá chênh lệnh nhau, chúng tôi tiến hành chọn mẫu khảo sát ở quận 1, quận 3 và 2 quận 8 và quận Bình Thạnh và 1 huyện Hóc Môn. Mỗi một quận tìm 2 khu phố đặc trưng cho đặt điểm của quận/huyện đó tiến hành phỏng vấn sâu, mỗi phường chọn mẫu phỏng vấn ngẫu nhiên 50 hộ gia đình, tỷ lệ phân bố mẫu các địa bàn như sau:
xem bảng 2.7.
Quận | Phường/ xã | Số lượng phỏng vấn | |
1 | Quận 1 | Bến Nghé | 50 |
2 | Quận 3 | 14 | 50 |
3 | Quận 8 | 7 | 50 |
4 | Quận Bình Thạnh | 25 | 50 |
5 | Huyện Hóc Môn | Xã Bà Điểm | 50 |
Có thể bạn quan tâm!
- (Ghi Chú: Các Đối Tượng Quy Định Trong Bảng Sau Là Các Đối Tượng Thuộc Phụ Lục 2)
- Kinh Nghiệm Về Bhyt Và Bhyt Toàn Dân Ở Một Số Quốc Gia:
- Thực Trạng Bhyt Toàn Dân Trên Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí Minh
- Mức Độ Đủ Điều Kiện Kinh Tế Để Chăm Sóc Sức Khỏe Bản Thân Tương Quan Với Nhờ Sự Giúp Đỡ Của Người Khác Về Tiền Khám Chữa Bệnh
- Giảm Thủ Tục Hành Chính Về Khám Chữa Bệnh Bhyt:
- Đẩy mạnh công tác thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 11
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
Bảng 2.7: Số lượng mẫu phỏng vấn theo địa bàn
Kết quả phỏng vấn 250 hộ trên 5 quận huyện như sau:
Trong 250 hộ tham gia trả lời phỏng vấn có 800 nhân khẩu, 112 nhân khẩu là công nhân được tìm hiểu thông tin kỹ hơn, khi đi phỏng vấn thực tế chúng tôi ghi nhận nhiều hơn 250 cá nhân đại diện trả lời. Chúng tôi phỏng vấn thông tin cụ thể về BHYT đối với từng thành viên trong gia đình, đối với các hộ gia đình, một số người có bảo hiểm một số người không, chúng tôi so sánh, phỏng vấn sâu hơn để tìm hiểu thông tin.
Trong 250 hộ có 71.2% có tham gia đóng BHYT, tỷ lệ hộ đóng BHYT tự nguyện thấp chỉ là 18% xem bảng 2.8.
Bảng 2.8: kết quả phỏng vấn sâu trên địa bàn 5 quận/huyện
Quận | Khu phố | Số hộ có thành viên đóng BHYT bắt buộc | Số hộ có thành viên đóng BHYT tự nguyện | Số hộ không đóng BHYT | Tổng cộng | |
1 | Quận 1 | Bến Nghé | 35 | 8 | 7 | 50 |
2 | Quận 3 | 14 | 35 | 6 | 9 | 50 |
Quận 8 | 7 | 19 | 18 | 13 | 50 | |
4 | Quận Bình Thạnh | 25 | 27 | 6 | 17 | 50 |
5 | Huyện Hóc Môn | Xã Bà Điểm | 17 | 7 | 26 | 50 |
Tổng cộng | 133 | 45 | 72 | 250 | ||
Phần trăm quy đổi | 53.2% | 18.% | 28,8% | 100% |
Kết quả này gần giống kết quả từ số liệu thống kê của Bảo hiểm thành phố cung cấp đến 31.12. 2015.
Như vậy có thể khẳng định kết quả khảo sát phù hợp với thực trạng của việc mua BHYT tại các quận huyện trong thành phố.
Ghi nhận của kết quả như sau:
Quận 1 và quận 3, ngoài các hộ đóng BHYT bắt buộc do thành viên trong các hộ có công ăn việc làm ổn định như công nhân viên chức, làm việc tại công ty nước ngoài, một số hộ kinh doanh buôn bán đều mua thêm hoặc chỉ mua các loại bảo hiểm của nước ngoài như menulife, prudential… có 3 hộ không mua do họ đến thuê nhà để kinh doanh và có hộ khẩu ở tỉnh khác, 1 hộ do người nước ngoài thuê và từ chối phỏng vấn.
So với quận 1 và quận 3 thì quận Bình Thạnh có tỷ lệ hộ gia đình mua BHYT bắt buộc ít hơn, hộ mua BHYT tự nguyện chỉ ưu tiên mua cho người già và trẻ em còn người lớn đang lao động không mua do chuyển nơi làm việc và làm nghề tự do. Số hộ có mua BHYT tự nguyện và bắt buộc không trọn vẹn người có, người không khá nhiều. Tuy các hộ trả lời đều nhận thấy lợi ích của BHYT khi ốm nặng còn ốm vặt tự mua thuốc và khám ở phòng khám tư nhân vào ngoài giờ hành chính. Những cá nhân này khó có thể tác động từ công tác tuyên truyền về lợi ích BHYT hay lợi ích của nó trong việc KCB, đơn giản họ nghĩ trẻ con và người già cần hơn người trẻ sức khoẻ tốt.
Về quận 8 do đặc thù của quận là ít khu xí nghiệp, nhà máy, cơ quan đoàn thể hoạt động trên địa bàn, khu vực phỏng vấn lại gần chợ và bờ kè, hộ gia đình nghèo sống tạm bợ khá nhiều khoảng 10 hộ trong mẫu phỏng vấn. Trong 19 hộ được liệt kê là có đóng BHYT bắt buộc thực chất cũng có một số cá nhân không đóng. Trong 18 hộ đóng BHYT tự nguyện có 5 hộ xác nhận con cái đi học nên đóng, 13 hộ còn lại được vận động đóng từ đợt bán BHYT của đại lý BHYT của phường và cảm thấy tự tin khi đi khám/chữa bệnh. Các hộ còn lại di chuyển nhiều nên khi đến ở không biết khu phố thông báo mua, có hộ biết thông báo nhưng không có hộ khẩu hoặc tạm trú nên chưa được mua BHYT, hoặc có hộ do nhiều cá nhân ghép lại cùng nhau ở nên không quan tâm đến BHYT.
Tình trạng huyện Hóc Môn cũng tương tự, chỉ khác là tiếp cận thông tin từ ấp và xã về việc bán BHYT tự nguyện thấp hơn và các hộ gia đình mong muốn tiếp cận tốt hơn, do họ không nghe được từ hệ thống loa phát thanh, còn lại đi làm nên không biết thông tin. 26 hộ không đóng BHYT và 24 hộ có đóng đều là hộ có công nhân làm việc ở các xí nghiệp vừa và nhỏ. Một số cá nhân vừa mới đi làm chưa được cơ quan đóng, một số đi làm nhưng không đóng bảo hiểm các loại để nhận được mỗi tháng tiền nhiều hơn so với lương chút đỉnh.
2.2.4 Thực trạng trong công tác khám chữa bệnh của người mua BHYT:
- Theo quy định của Luật BHYT, người tham gia bảo hiểm y tế phải đăng ký KCB ban đầu tại cơ sở khám chữa bệnh tuyến quận, huyện và tương đương hoặc tuyến xã là trạm y tế các phường xã. Nhưng thực tế tại Thành phố có mạng lưới bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh được trang bị cơ sở vật chất, máy móc thiết bị hiện đại và lực lượng nhân sự y tế có chuyên môn nghiệp vụ giỏi và điều kiện tiếp cận với người dân khá thuận tiện. Còn cơ sở vật chất của các trạm y tế phường xã chật hẹp, trang thiết bị nghèo nàn, thiếu nhân sự, không thu hút người dân đăng ký KCB. Cho nên trên thực tế hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh bệnh viện tuyến quận huyện hiện đang quá tải và vẫn còn 31,5% số thẻ phát hành đang đăng ký tại tuyến tỉnh.
- Người tham gia BHYT được hưởng các quyền lợi như: Khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ, sinh con; khám bệnh để sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh; vận chuyển người bệnh lên tuyến trên cho một số đối tượng; quyền lợi BHYT không phụ thuộc vào mức phí đóng BHYT. Năm 2013, Bảo hiểm xã hội Thành phố đã ký hợp đồng với 129 cơ sở khám chữa bệnh, trong đó có 54 cơ sở khám chữa bệnh tư nhân đủ điều kiện khám chữa bệnh BHYT theo quy định. Việc mở rộng ký hợp đồng KCB với cơ sở y tư nhân có đủ tiêu chuẩn về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, nguồn lực và đội ngũ y bác sỹ tận tình phục vụ, cơ chế tài chính minh bạch, rõ ràng, chất lượng KCB ngày càng nâng cao, đã tạo điều kiện cho các đối tượng tham gia KCB lựa chọn nơi khám chữa bệnh phù hợp hơn, tạo sự cạnh tranh nhằm thu hút số người đi KCB của các đơn vị này đồng thời giảm tải cho các bệnh viện tuyến công lập và đây cũng là một trong những động lực để người dân tham gia BHYT toàn dân.
- Theo số liệu báo cáo thống kê của Bảo hiểm xã hội Thành phố: Năm 2011, có 12.901.851 lượt khám chữa bệnh ngoại trú và nằm nội trú với chi phí là 5.273,79 tỷ đồng (trong đó khám chữa bệnh cho bệnh nhân các tỉnh khám tại TP. Hồ Chí Minh là 2.096 tỷ đồng). Quỹ khám chữa bệnh kết dư 187,47 tỷ đồng. So với thực chi năm 2010 tăng 36%; năm 2012, có 12.869.772 lượt khám chữa bệnh ngoại trú và nằm nội trú với chi phí là 5.040,96 tỷ đồng (trong đó khám chữa bệnh cho bệnh nhân các tỉnh khám tại TP. Hồ Chí Minh là 1.691 tỷ đồng). Quỹ khám chữa bệnh kết dư 345,18 tỷ đồng. So với thực chi năm 2011 giảm 5%. Việc thanh toán chi phí KCB BHYT giữa BHXH và bệnh nhân đều tuân thủ theo các quy định của các cấp thẩm quyền như về thuốc, vật tư y tế, giá dịch vụ kỹ thuật, tuyến chuyên môn kỹ
thuật…và thực hiện cùng chi trả. Việc thanh toán chi phí KCB khác nhau giữa các nhóm đối tượng với các mức khác nhau là 100%, 95%, 80%. Nhìn chung độ chênh lệch không lớn, trừ các trường hợp vượt tuyến, trái tuyến, mức hưởng chênh lệch tương đối lớn so với đối tượng đi đúng tuyến (chênh lệch đến 70%). Việc áp dụng trần thanh toán bằng 90% quỹ khám chữa bệnh của số người đăng ký KCB tại cơ sở y tế đối với chi phí KCB tại cơ sở y tế đó và chi phí phát sinh của bệnh nhân tại cơ sở y tế tuyến trên dẫn tới tình trạng cơ sở y tế bắt buộc phải hạn chế quyền lợi của bệnh nhân và hạn chế chuyển bệnh nhân BHYT đi KCB tại các cơ sở y tế khác.
- Từ tháng 01/2013 khi thực hiện triệt để chuyển thẻ BHYT về đăng ký ban đầu tại tuyến quận/huyện và tương đương trở xuống thì xảy ra tình trạng các bệnh viện tuyến tỉnh có đội ngũ nhân lực đông, cơ sở vật chất hiện đại, máy móc thiết bị cao cấp thì bệnh nhân đến khám lại ít (đến 10 giờ sáng thì không còn bệnh nhân để khám) như Bệnh viện Trưng Vương, Nguyễn Tri Phương, Bệnh viện 7A, Bệnh viện Sài gòn … bình quân hơn 500 lượt khám/ngày, tuy nhiên tại các bệnh viện tuyến quận/ huyện thì quá tải bệnh nhân phải xếp sổ chờ được khám từ 4-5 giờ sáng, nhiều bệnh viện phải làm việc ngoài giờ như Bệnh viện quận Bình Thạnh, Thủ Đức, Tân Phú, Tân Bình….số lượt bình quân từ 2.000-3000 lượt/ngày. Nhiều người mắc các bệnh mãn tính đang được điều trị tại tuyến Bệnh viện đa khoa tỉnh nhưng theo Luật cũng phải về đăng ký tuyến huyện, vì vậy người bệnh phải đến bệnh viện quận/huyện chờ đợi được khám với mục đích xin giấy chuyển viện lên tuyến trên, việc này góp phần gây nên quá tải và có thể xảy ra hiện tượng tiêu cực trong việc xin giấy chuyển tuyến KCB. Chuyển tuyến khám chữa bệnh thực hiện đúng thông tư 10/2009/TT-BYT. Do việc quy định thanh toán các chi phí tại tuyến trên được trừ vào các bệnh viện nhận đăng ký KCB ban đầu, nên các Bệnh viện có đăng ký ban đầu thường có xu hướng giữ bệnh nhân lại không cho hoặc gây khó khăn chuyển viện lên tuyến khác. Vì vậy bệnh nhân có nhu cầu điều trị tại tuyến khác nơi đăng ký ban đầu khó xin được giấy chuyển viện hoặc ngại phải chờ đợi lâu đã có xu hướng đi khám chữa bệnh vượt tuyến, trái tuyến. Số lượng bệnh nhân đi khám chữa bệnh trái tuyến tăng qua hàng năm, cụ thể: năm 2011 có 1.688.635 lượt, năm 2012 có 2.209.592 lượt.
- Mức đóng và chế độ hưởng BHYT giữa các đối tượng chưa phù hợp. Nhóm hộ gia đình, người nghèo, cận nghèo có mức đóng chỉ bằng 1/4 lần nhóm người lao động nhưng có tần suất sử dụng thẻ cao (Nhóm người nghèo, cận nghèo cao gấp từ 2 lần đến 4.24 lần so với nhóm người lao động); Nhóm hộ gia đình sử dụng gấp 6 lần so với mức đóng BHYT; Nhóm người nghèo, cận nghèo sử dụng hơn 3 lần mức đóng BHYT. Hằng năm quỹ BHYT phải bù đắp cho nhóm hộ gia đình đã trên 1.000 tỷ đồng chưa kể phải bù nhóm hưu trí, chính sách có công, người nghèo, cận nghèo.
- Việc phân cấp quản lý quỹ theo từng địa phương gây rất nhiều bất cập, thời gian, công sức cho thanh toán nội bộ trong ngành Bảo hiểm xã hội để hạch toán riêng từng chi phí khám chữa bệnh của từng Bảo hiểm xã hội tỉnh/thành. Mặc khác tùy theo tình hình kinh tế- xã hội của từng tỉnh thành để hình thành quỹ BHYT, các
tỉnh có nhiều đối tượng chính sách, người nghèo sẽ luôn bị bội chi, ngược lại các tỉnh có kinh tế phát triển, nhiều khu công nghiệp thì không bao giờ vượt quỹ hoặc các tỉnh thiếu cơ sở ngành y tế thiếu thốn khả năng tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của người dân kém thì quỹ KCB không sử dụng hết hoặc ngược lại. Việc quy định sử dụng quỹ kết dư theo từng địa phương theo quy định của Luật chưa phù hợp trong trường hợp quỹ BHYT cả nước mất cân đối thu chi nhưng cục bộ vẫn có nhiều tỉnh/thành kết dư thì được sử dụng một phần kết dư để phục vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại địa phương.
Ghi chú: Số liệu theo báo cáo kết quả thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế 3 năm 2011-2013 của BHXH TP. Hồ Chí Minh (Năm 2015)
2.2.5 Công tác tuyên truyền BHYT toàn dân:
Trong những năm qua, Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức triển khai công tác tuyên truyền khá tốt, đơn vị đã chủ động cung cấp thông tin để các cơ quan báo đài đưa tin về hoạt động ngành, về các chế độ chính sách mới có liên quan đến người dân. Ngoài ra, phối hợp với Báo ngành BHXH đăng tin, bài về các chuyên đề về BHYT.
- Tuyên truyền trực quan và các ấn phẩm: Hàng năm, Bảo hiểm xã hội Thành phố đã phối hợp với Ủy ban nhân dân các phường xã thực hiện phát hành hàng trăm nghìn Tờ áp phích “Những điều cần biết về BHXH tự nguyện, BHYT tự nguyện” tuyên truyền thông qua các tổ dân phố hoặc các đại lý thu phường, xã; phối hợp Đại học Quốc gia TP.HCM xây dựng cẩm nang “Những điều cần biết đối với học sinh, sinh viên”, trong đó có thông tin, tuyên truyền về nghĩa vụ và quyền tham gia BHYT HSSV; Phối hợp với các cơ sở trường học dán áp phích về BHYT học sinh, sinh viên, phát tờ rơi những điều cần biết về bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên tại các trường học trên địa bàn. Do đó, số lượng học sinh sinh viên tham gia BHYT ngày càng tăng. Ngoài ra, phát hành các ấn phẩm tuyên truyền do BHXH Việt Nam cung cấp như: “Những điều cần biết về KCB BHYT” và “Những điều cần biết về BHYT đối với người thuộc hộ cận nghèo”.
- Trang thông tin điện tử Bảo hiểm xã hội Thành phố: www.bhxhtphcm.gov.vn Tất cả các văn bản pháp luật từ trung ương đến văn bản nghiệp vụ ngành có liên quan đến BHYT đều được đăng tải tại đây để mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị có thể truy cập dễ dàng nhanh chóng và nắm bắt kịp thời. Ngoài ra, tổ chức trả lời câu hỏi, thắc mắc của đơn vị và người lao động về BHXH- BHYT. Thực hiện công khai quy trình, thủ tục, biểu mẫu, hồ sơ giao dịch Một cửa trên trang thông tin điện tử cũng như tại trụ sở cơ quan BHXH Thành phố và BHXH 24 quận huyện.
- Công tác thông tin tuyên truyền về chính sách, pháp luật về BHYT hiệu quả với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, góp phần giúp cho người dân hiểu được quyền lợi, trách nhiệm tham gia và ý nghĩa thiết thực khi tham gia BHYT; thông tin
về các văn bản pháp luật và các tin tức liên quan đến chế độ chính sách BHYT trên Trang thông tin điện tử được cập nhật đầy đủ, kịp thời giúp người lao động và các cá nhân nắm bắt một cách nhanh chóng, thuận lợi; việc thực hiện thủ tục đơn giản giúp tiết kiệm thời gian, công sức và tránh đi lại nhiều lần. Đồng thời, thông tin tuyên truyền hiệu quả đã khuyến khích vận động người dân và HSSV tham gia BHYT, góp phần nâng cao nhận thức về quyền lợi trách nhiệm của người tham gia BHYT trong khám chữa bệnh, ý thức phục vụ người bệnh của đội ngũ y, bác sĩ để xây dựng nền y tế Việt Nam theo hướng công bằng và phát triển hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện nay kinh phí tuyên truyền còn thiếu, năm 2012 Bảo hiểm xã hội Thành phố được Bảo hiểm xã hội việt Nam cấp tổng kinh phí tuyên truyền là 800.000.000 đồng trong khi đó BHXH Thành phố phân xuống BHXH 24 quận
/huyện là 240.000.000 đồng, còn lại tại BHXH Thành phố là 560.000.000 đồng; năm 2013 Bảo hiểm xã hội việt Nam cấp tổng kinh phí tuyên truyền là 900.000.000 đồng trong khi đó BHXH Thành phố phân xuống BHXH 24 quận /huyện là 240.000.000 đồng, còn lại tại BHXH Thành phố là 660.000.000 đồng, trong khi đó đội ngũ tuyên truyền còn mỏng nên việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền đến chế độ BHYT tới người dân và người lao động còn nhiều khó khăn.
Ghi chú: Số liệu theo báo cáo kết quả thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế 3 năm 2011-2013 của BHXH TP. Hồ Chí Minh (Năm 2015)
2.3 Một số ý kiến của người dân trong thực hiện BHYT toàn dân:
2.3.1 Lý do không tham gia BHYT và ý kiến của người:
Việc tham gia BHYT thật sự mang lại nhiều lợi ích thiết thực, hỗ trợ cho người dân trong việc chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là đối với các hộ gia đình công nhân có điều kiện kinh tế khó khăn. Phần lớn người lao động đang làm việc tại các công ty, xí nghiệp thường tham gia BHYT dưới dạng bảo hiểm bắt buộc, được doanh nghiệp đóng 2/3, còn 1/3 phí người lao động sẽ chịu. Mặc dù, đối tượng tham gia BHYT được quy định cụ thể trong Luật số 25/2008/QH12 là: "...người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động...". Nhưng theo kết quả phỏng vấn có 112 công nhân trả lời phỏng vấn có đến 78 % công nhân nhập cư cho biết họ được doanh nghiệp đóng BHYT, nhưng cũng có đến 22% công nhân nhập cư không được doanh nghiệp đóng BHYT. Đi tìm hiểu lý do tại sao người lao động không được doanh nghiệp mua BHYT, có một số nguyên nhân nổi trội sau:
Bảng 2.9: Lý do người lao động không được doanh nghiệp mua BHYT
Lý do người lao động không được doanh nghiệp mua BHYT | Có | ||
Số lượng người được khảo sát | Tỉ lệ % | ||
01 | Do tính chất công việc không ổn định | 16 | 10 |
02 | Do mới vào làm việc | 30 | 18 |
03 | Do bản thân lao động không muốn đóng | 13 | 8 |
04 | Do không có hợp đồng lao động | 54 | 33 |
05 | Do chủ doanh nghiệp không chịu đóng | 34 | 21 |
06 | Lý do khác | 16 | 10 |
(Nguồn: dữ liệu khảo sát định tính của đề tài tháng 10/2015)
Ba lý do nổi trội nhất cho việc doanh nghiệp không đóng BHYT cho người lao động là: do không có hợp đồng lao động (33%) – trường hợp này thường gặp ở các doanh nghiệp tư nhân, do chủ doanh nghiệp không chịu đóng BHYT (21%) và do mới vào làm việc (18%).
Thực tế từ cuộc khảo sát có 60% số người trong hộ công nhân có bảo hiểm y tế tương đương 1181/1945 người trên mẫu khảo sát. Trong đó có 900/1945 người có bảo hiểm y tế thuộc diện bắt buộc chiếm 46%, 14% còn lại thuộc diện bảo hiểm y tế tự nguyện và y tế thuộc diện khác.
Nghĩa là 40% số người trong hộ công nhân không có bảo hiểm y tế. Nguyên nhân mà tỷ lệ người trong hộ công nhân không có bảo hiểm y tế cao là do không đủ tiền 30.6%, muốn mua nhưng không mua được 20% và vì thấy không cần thiết 49.4%. ngoài những người không biết tự mình hạn chế những rủi ro mà họ có thể gặp phải trong ốm đau bệnh tật thì những nguyên nhân không đủ tiền hoặc muốn mua nhưng không mua được, cần có chính sách bảo trợ xã hội tốt hơn.
2.3.2. Ý kiến của người dân về giải pháp thúc đẩy tham gia BHYT tự nguyện:
Sức khỏe là tài sản quý nhất của mỗi con người. Do đó, giữ gìn và bảo vệ khối tài sản quý giá này luôn là một trong những vấn đề quan tâm trong cuộc sống của một con người. Mặc dù, sức khỏe là quan trọng nhưng khi tìm hiểu về ba yếu tố giúp cho cuộc sống của công nhân nhập cư được ổn định thì “gia đình được chăm sóc sức khỏe tốt” chỉ chiếm tỉ lệ 14.2% so với các yếu tố khác, như: “có việc làm ổn định” (76.4%), “có thu nhập ổn định” (75.1%), “có nhà cửa đàng hoàng”(59%),…
Tuy nhiên, việc chăm sóc sức khỏe phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan khác nhau, chẳng hạn như: chế độ dinh dưỡng của cá nhân, môi trường làm việc, khả năng tài chính để chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và cả chất lượng khám chữa bệnh của các cơ sở y tế.
Về khả năng chi trả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hộ gia đình công nhân lao động, kết quả khảo sát, nêu bật một số vấn đề sau:
Bảng 2.10: Nhận xét về điều kiện kinh tế để chăm sóc sức khỏe cho bản thân
Tỉ lệ % | ||
Giá trị | Dư giả | 1.0 |
Đầy đủ | 8.9 | |
Tạm đủ | 56.3 | |
Khó khăn | 30.9 | |
Rất khó khăn | 2.6 | |
Ý kiến khác | 0.3 | |
Tổng cộng | 100.0 |
(Nguồn: dữ liệu phỏng vấn của đề tài tháng 10/2015)
Hoàn cảnh sống hiện tại cho thấy, 56.3% hộ gia đình công nhân “tạm đủ” về điều kiện kinh tế để có thể chăm sóc sức khỏe cho bản thân, 30.9% cảm thấy “khó khăn” và 2.6% “rất khó khăn” về điều kiện kinh tế để có thể chăm sóc sức khỏe cho bản thân, đặc biệt là những người không được tham gia BHYT.
Cuối thập niên 1980 người dân không phải trả viện phí, chính sách viện phí ra đời nhằm hỗ trợ cho sự xuống cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng của các cơ sở y tế. Quyết định 45 HĐBT được ban hành năm 1989 chủ trương thu viện phí và từ đó đến nay, mức thu cho viện phí ngày càng tăng theo thời gian, điều này tạo thêm gánh nặng cho người dân nói chung và công nhân nói riêng, đặc biệt là những công nhân có thu nhập thấp.
Theo khảo sát, mỗi một người chi 88.387 đ/tháng cho y tế - chăm sóc sức khỏe, trung bình mỗi hộ cần 165.179 đ/tháng, trong đó, mức chi phí dành cho việc chăm sóc sức khỏe của mỗi hộ gia đình công nhân nhập cư phổ biến nhất là 100.000 đồng/tháng (15.1%), 200.000 đồng/tháng (12.8%), 50.000 đồng/tháng (7.3%), cá