Quan Niệm Về Chất Lượng Tín Dụng Hộ Sản Xuất


Chất lượng của sự vật, hiện tượng biểu thị trình độ phát triển của nó, chất lượng càng cao thì trình độ phát triển của sự vật càng cao. [56]

Theo Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa, trong tiêu chuẩn ISO 8402:2000 (Quality Management and Quality Asurance): “Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một thực thể, tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn các nhu cầu đã được công bố hay còn tiềm ẩn”. [57]

Theo Giáo sư F.B. Theo Crosby, "Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu". Còn theo J.M.Juran, một chuyên gia về chất lượng hàng đầu của Mỹ, "Chất lượng bao gồm những đặc điểm của sản phẩm phù hợp với các nhu cầu của khách hàng và tạo ra sự thỏa mãn đối với khách hàng". (Nguồn: Nguyễn Thị Mai Trang (2006) [60]

Lehtinen và Lehtinen (1982) cho là: “Chất lượng dịch vụ phải được đánh giá trên hai khía cạnh, (1) quá trình cung cấp dịch vụ và (2) kết quả của dịch vụ”. [60]

Để hiểu về chất lượng tín dụng, trước hết chúng ta cần thống nhất quan điểm về tín dụng. Tại Việt Nam, khái niệm chính thống về hoạt động tín dụng ngân hàng được thể hiện trong Luật các Tổ chức tín dụng ban hành năm 2010, có hiệu lực từ 1/1/2011, phần giải thích thuật ngữ không có định nghĩa riêng về tín dụng. Thuật ngữ “ Hoạt động tín dụng" được giải thích như sau: " Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng". Tiếp đó, thuật ngữ cấp tín dụng được giải thích: "Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác" .(Nguồn: Quốc hội (2010) [62]

Trên thực tế, khi cung cấp một khoản tín dụng cho khách hàng, vấn đề Ngân hàng quan tâm hàng đầu là khách hàng trả nợ đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn như hợp đồng tín dụng đã ký. Giả sử Ngân hàng làm được điều này thì khoản tín dụng đó được coi là có chất lượng hay không? Điều này chưa thể khẳng định được. Trong trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, hoặc làm ăn thua lỗ thì chắc chắn khoản tín dụng đó không thể coi là có chất lượng, mặc dù khách hàng trả nợ đầy đủ cả gốc và lãi.


Từ những quan niệm và phân tích ở trên, luận án cho rằng, chất lượng tín dụng của NHTM đó là khả năng của NHTM đáp ứng các nhu cầu tín dụng hợp lý của khách hàng và thỏa mãn các thỏa thuận thống nhất giữa hai bên.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng. Đảm bảo an toàn và hiệu quả hoặc hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy khi xem xét chất lượng tín dụng cần xem xét từ ba phía: Ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

Xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của NHTM thì chất lượng tín dụng là khoản tín dụng được đảm bảo an toàn, sử dụng vốn vay đúng mục đích, tài sản thế chấp đảm bảo khoản vay, phù hợp với chính sách tín dụng của Ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn đem lại lợi nhuận cho NHTM với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trên thị trường. Tăng trưởng dư nợ phù hợp với tăng trưởng nguồn vốn, tỷ lệ nợ xấu đảm bảo quy định, tỷ lệ nợ xấu thấp hạn chế rủi ro mất vốn.

Xét trên góc độ lợi ích của khách hàng thì khoản tín dụng có chất lượng là khoản tín dụng được cho vay phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý để đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó thủ tục tín dụng đơn giản, thái độ nhiệt tình của cán bộ NHTM, tư vấn cho khách hàng vay làm sao kinh doanh có hiệu quả.

Chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 5

Đối với nền kinh tế: Khoản tín dụng có chất lượng phải góp phần phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc cho người lao động, làm thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển nhiều thành phần kinh tế, ngành kinh tế ở từng khu vực.

1.2.1.2. Quan niệm về chất lượng tín dụng hộ sản xuất

Qua nghiên cứu ở phần trên, chúng ta thấy rằng tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội nói chung và đối với HSX nói riêng là điều quan tâm chung đối với các Ngân hàng. Vậy chất lượng tín dụng hộ sản xuất là gì? Qua nghiên cứu nhiều nguồn tài liệu khác nhau, Nghiên cứu sinh chưa tìm


thấy một khái niệm riêng về chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất. Từ những nội dung phân tích ở trên, Nghiên cứu sinh cho rằng, chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất cũng không nằm ngoài quan niệm về chất lượng tín dụng nói chung. Luận án cho rằng, chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất khả năng NHTM đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý của hộ sản xuất và thỏa mãn những thỏa thuận bằng văn bản thống nhất giữa hai bên.

Để đảm bảo chất lượng tín dụng, vốn vay của ngân hàng được hộ sản xuất đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, v.v, tạo ra một số tiền lớn hơn đủ để hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng, trang trải chi phí phục vụ chộ sản xuất kinh doanh và có phần lợi nhuận, phù hợp với các điều kiện của ngân hàng và của nền kinh tế - xã hội.

Về phía NHTM cho vay, chất lượng tín dụng là kết quả của việc thực hiện một quy trình chặt chẽ, với sự phối hợp hoạt động của cán bộ, nhân viên trong một chi nhánh, một phòng giao dịch, một NHTM. Để đảm bảo chất lượng tín dụng cần phải có sự tổ chức và quản lý đồng bộ trong một Ngân hàng, điều đó không chỉ đảm bảo cho chất lượng tín dụng mà còn nhằm nâng cao tính hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ cơ sở sản xuất nhằm thỏa mãn ngày càng đầy đủ yêu cầu của khách hàng ở mọi công đoạn, bên trong cũng như bên ngoài. Để làm được điều đó mỗi thành viên trong tổ chức Ngân hàng phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý chất lượng. Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động.

1.2.2. Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng đối với hộ sản xuất của Ngân hàng thương mại

1.2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng không chỉ là mối quan tâm của các ngân hàng mà còn là vấn đề của nền kinh tế. Có nhiều cách diễn đạt khác nhau về rủi ro tín dụng của NHTM, luận án xin nêu một số khái niệm chính sau đây:

Theo Ủy ban Basel (2000), thì “Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng vay hoặc bên đối tác của Ngân hàng không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận


[Nguồn: Basel Committee on Banking Supervision (September 2000), Principal for the Management of Credit Risk]. Theo khái niệm này thì rủi ro tín dụng có phạm vi khá rộng, không chỉ trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng mà trong cả các hoạt động khác như đầu tư, sử dụng công cụ phái sinh mà ngân hàng thực hiện. Tuy nhiên, như đã giới thiệu trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận án chỉ nghiên cứu rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay hay còn gọi là hoạt động cấp tín dụng của NHTM. Vì vậy rủi ro tín dụng có thể hiểu đơn giản là sự vi phạm không hoàn trả nợ từ phía khách hàng vay.[65]

Theo hai nhà kinh tế A. Saunder và H. Lange [Nguồn: Financial Institutions Management - A Modern Perpective] thì rủi ro tín dụng được định nghĩa là “khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của Ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời gian”. [66]

Theo cách hiểu tại các NHTM Việt Nam hiện nay thì “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết” [42].

Như vậy, từ nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm rủi ro tín dụng, Luận án xin nêu quan niệm có tính chất khái quát như sau: Rủi ro tín dụng là rủi ro do khách hàng được cấp tín dụng, bên có nghĩa vụ hoặc bên đối tác không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết đối với Ngân hàng cấp tín dụng.

1.2.2.2. Quản lý rủi ro tín dụng hộ sản xuất

Nguyên tắc cơ bản của quản lý rủi ro tín dụng là mở rộng tín dụng phải đảm bảo an toàn và gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng. Quản lý rủi ro tín dụng HSX cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc này. Theo đó các quy định về quản lý rủi ro tín dụng HSX của NHTM phải luôn phù hợp với quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế, nhưng cũng phải phù hợp với đặc điểm của HSX được nêu tại mục 1.1.2 nói trên; cụ thể:


- Quản lý khách hàng vay: khách hàng vay là HSX được xác định rộng rãi nhưng chặt chẽ hơn, có đủ cả 2 điều kiện:

+ Điều kiện cần: có nhu cầu vay.

+ Điều kiện đủ: có đủ điều kiện vay, có khả năng trả nợ lãi, gốc theo cam kết.

- Xử lý nợ vay: khách hàng vay (HSX) phải trả nợ gốc, lãi theo đúng thời hạn, kỳ hạn đã cam kết trong hợp đồng tín dụng song trường hợp khách hàng có lý do hợp lý về việc giãn việc trả nợ thì sẽ được Ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ bằng hình thức điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và gia hạn thời hạn nợ. Nếu không được Ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì khoản vay của khách hàng sẽ bị chuyển nợ quá hạn và chuyển vào các nhóm nợ thích hợp để tiện theo dõi. Trường hợp các khoản nợ vay khó có khả năng hoặc mất khả năng thu hồi sẽ được Ngân hàng dùng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý, chuyển hạch toán sang ngoại bảng để theo dõi, thu nợ và nhằm làm lành mạnh tài chính của Ngân hàng.

- Kiểm tra, giám sát khoản vay: đánh giá được khả năng hoàn trả nợ gốc, lãi tiền vay của khách hàng (HSX) là việc làm thường xuyên, có tính chất quyết định để phân loại nợ vay theo các nhóm thích hợp và làm căn cứ cho việc cấp tín dụng cho khách hàng ở các lần tiếp theo.

- Phân loại nợ: theo quy định hiện hành của Việt Nam và theo thông lệ quốc tế thì các khoản nợ được phân loại thành 5 nhóm và có 2 phương pháp (định tính và định lượng): [42]

+ Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn: là các khoản nợ trong hạn và được Ngân hàng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể cho khoản vay thuộc nhóm 1 là: 0%.

+ Nhóm 2: Nợ cần chú ý: bao gồm các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể cho khoản vay thuộc nhóm 2 là: 5%.

+ Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn: bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này


được Ngân hàng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể cho khoản vay thuộc nhóm 3 là: 20%.

+ Nhóm 4: Nợ nghi ngờ: bao gồm các khoản nợ được Ngân hàng đánh giá là có khả năng tổn thất cao. Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể cho khoản vay thuộc nhóm 4 là: 50%.

+ Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn: bao gồm các khoản nợ được Ngân hàng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể cho khoản vay thuộc nhóm 5 là: 100%.

- Quỹ dự phòng rủi ro: do ngân hàng tính toán và trích lập theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước từng thời kỳ, bao gồm:

+ Dự phòng chung: là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ, trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của Ngân hàng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm. Tuỳ từng thời kỳ, ngân hàng sẽ trích lập dự phòng chung theo một tỷ lệ nhất định cho các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.

+ Dự phòng cụ thể: là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra và được tính theo công thức sau:

R=max{0,(A-C)}x r

Trong đó:

R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích A: số dư gốc của khoản nợ

C: giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể

- Xếp hạng tín dụng đối với khách hàng Hộ sản xuất: là hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ góp phần hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế của mỗi Ngân hàng. Hệ thống xếp hàng tín dụng nội bộ của các Ngân hàng có thể có một số nội dung khác nhau phù hợp với hoạt động của mỗi loại hình Ngân hàng nhưng có những nội dung chung như: Các


tiêu chí đánh giá khách hàng chi tiết, cụ thể theo một hệ thống, quy trình trên cơ sở đánh giá khách hàng cả yếu tố định tính và định lượng. Theo đó phân chia khách hàng thành 2 nhóm (Cá nhân và doanh nghiệp) với 10 hạng như sau:

+ Nhóm A: 3 hạng (AAA, AA, A), khách hàng tốt, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc, lãi tiền vay đúng hạn, rủi ro thấp.

+ Nhóm B: 3 hạng (BBB, BB, B): khách hàng quan hệ lần đầu, hoặc có dấu hiệu suy giảm tài chính, không được ưu đãi khi cho vay, có khi phải hạn chế cho vay.

+ Nhóm C: 3 hạng (CCC, CC, C) khách hàng yếu, có khả năng không thanh toán được một phần nợ gốc, lãi tiền vay, khách hàng thuộc hạng này bị hạn chế tối đa tín dụng, phải xử lý nợ bằng mọi biện pháp.

+ Nhóm D: khách hàng đặc biệt yếu kém, nợ gốc và lãi vay bị tổn thất toàn bộ; khách hàng hạng này không được cho vay mới và tìm mọi biện pháp xử lý, kể cả cưỡng chế và khởi kiện.

1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tín dụng hộ sản xuất

1.2.3.1. Nhóm nhân tố từ phía Ngân hàng thương mại

Theo Nguyễn Văn Tiến (2010) và Trần Văn Dự (2005), các nhân tố chủ quan từ phía Ngân hàng thương mại ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất bao gồm:

- Chính sách của Ngân hàng:

+ Chính sách của Ngân hàng do Ban Lãnh đạo vạch ra, đó là hệ thống có liên quan đến việc khuyếch trương hay hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh tín dụng.

+ Đó là việc tập trung đầu tư, nghiên cứu từng nhóm khách hàng mà trên cơ sở đó có những chính sách, cách giải quyết đối với từng nhóm khách hàng nhất định. Theo đó chính sách của Ngân hàng có mở rộng và phát triển nền khách hàng bền vững là HSX hay không.

Như vậy chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào việc xây dựng chính sách tín dụng của Ngân hàng cũng như việc điều hành, kiểm soát việc thực hiện chính sách đó.


- Thông tin tín dụng:

Thông tin tín dụng là các thông tin liên quan đến tình hình tài chính cũng như sản xuất của khách hàng nói chung và HSX nói riêng. Thông tin tín dụng có thể được khai thác trực tiếp từ khách hàng, từ các cơ quan truyền thông tin tín dụng trong và ngoài nước. Số lượng chất lượng của thông tin tín dụng thu thập được có liên quan đến mức độ chính xác trong phân tích tín dụng, thông tin càng đầy đủ nhanh nhậy, chính xác và toàn diện thì càng tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro, do đó chất lượng tín dụng được nâng cao.

- Quy trình tín dụng:

Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn nguồn vốn tín dụng. Nó được bắt đầu từ khi tiếp nhận đơn, thẩm định cho vay, giải ngân vốn vay đến khi thu hồi được nợ. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quá trình hoạt động tín dụng diễn ra sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển theo đúng kế hoạch đã định từ đó đảm bảo được chất lượng tín dụng.

- Cán bộ Ngân hàng:

Trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất. Họ là người kiểm tra tư cách khách hàng, thẩm định điều kiện và dự án phương án xin vay. Nếu cán bộ tín dụng không đủ năng lực để kiểm tra hoặc thẩm định, hoặc làm việc thiếu trách nhiệm với công việc thì hiệu quả tín dụng đạt được chắc chắn sẽ không cao. Thậm chí nếu tư cách đạo đức của cán bộ tín dụng không tốt thì sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng ngân hàng.

- Công tác tổ chức của Ngân hàng:

Tổ chức của Ngân hàng nếu được bố trí sắp xếp một cách hợp lý có khoa học sẽ đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa cán bộ và các phòng ban, là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý hiệu quả vốn tín dụng. Trên cơ sở đó nó có tác dụng đáp ứng kịp thời các nhu cầu của khách hàng.

Tổ chức của Ngân hàng còn bao gồm mạng lưới và tổ chức hoạt động cho vay theo mô hình bán lẻ, mở rộng đối tượng khách hàng hộ sản xuất hay không!


- Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng và mức độ hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng:

Để phục vụ các hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, Ngân hàng cần có đầy đủ các trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính và quy mô hoạt động của Ngân hàng. Qua đó Ngân hàng có thể đáp ứng các yêu cầu dịch vụ của khách hàng và giúp các cấp quản lý có các thông tin nhanh, đầy đủ, chính xác để ra quyết định kịp thời. [7] [49]

1.2.3.2. Nhóm nhân tố từ phía khách hàng hộ sản xuất

Cũng theo Nguyễn Văn Tiến (2010) và Trần Văn Dự (2005), HSX như phần trên đã đề cập là đối tượng khách hàng đông đảo của Ngân hàng, nhất là các Ngân hàng hoạt động chủ yếu ở khu vực nông nghiệp nông thôn; có vai trò quan trọng thứ hai sau yếu tố chủ quan của Ngân hàng quyết định đến chất lượng tín dụng đối với hộ sản suất. Một môi trường tốt cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng phải tập trung được nhiều khách hàng cung cấp tiền gửi cho Ngân hàng; đồng thời, phải có các khách hàng tiền vay làm ăn tốt để tạo sản phẩm “đầu ra” giúp Ngân hàng có được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và huy động. Ngân hàng chỉ thực sự họat động có hiệu quả khi phục vụ thật tốt nhu cầu của khách hàng bao gồm nhu cầu gửi, rút tiền mặt, thanh toán, chuyển tiền, nhu cầu tư vấn tín dụng, đầu tư chứng khoán và vay tiền, bảo lãnh. Các nhân tố cụ thể ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay hộ sản xuất được đề cập dưới đây: [7] [49]

- Trình độ văn hoá, nhận thức pháp luật và trình độ sản xuất của HSX:

Đây là nhân tố quan trọng đầu tiên từ góc độ hộ sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng cho vay vốn tới đối tượng khách hàng này. Bởi vì với trình độ văn hoá khá, ý thức pháp luật và trình độ sản xuất của hộ gia đình khá, họ thường làm ăn bài bản, chắc chắn, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đầu tư, trước khi vay vốn cũng như sử dụng vốn vay, tính toán nguồn trả nợ. Những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, họ thường gây ít rủi ro cho Ngân hàng hơn. Ngược lại, thì tiềm ẩn rủi ro nhiều hơn cho Ngân hàng.


- Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ mà HSX lựa chọn:

Lĩnh vực đó có khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường thuận lợi hay không, mức cạnh tranh ra sao, khả năng tiêu thụ như thế nào, tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu, cũng như sự ảnh hưởng của thời tiết khí hậu đến lĩnh vực mà họ sản xuất. Đồng thời hộ gia đình chuyên doanh một sản phẩm hay sản xuất kinh doanh nhiều sản phẩm khác nhau. Thông thường HSX đa canh, kinh doanh tổng hợp thì mức độ rủi ro cho Ngân hàng thấp hơn. Những sản phẩm có khả năng xuất khẩu tăng mạnh và ổn định, hay tiêu thụ thuận lợi trong nước, gần cơ sở tiêu thụ, thì rõ ràng chất lượng tín dụng sẽ an tâm hơn. Lĩnh vực sản xuất đó có bị tác động mạnh bởi thiên tai, dịch bệnh, diễn biến bất thường của thị trường hay không. Đây chính là đối tượng đầu tư vốn của Ngân hàng, nên cần được xem xét nhiều mặt, nhất là khả năng tiêu thụ ổn định trên thị trường trong và ngoài nước.

- Năng lực tài chính của HSX:

Năng lực tài chính của HSX được thể hiện ở quy mô và giá trị tài sản của gia đình. Đây cũng là cơ sở bảo đảm tiền vay, tất yếu là kèm theo các yếu tố pháp lý, khả năng bán trên thị trường hay khả năng phát mại khi hộ sản xuất không có khả năng trả nợ. Tiếp theo đó là vốn tự có bằng tiền của hộ sản xuất tham gia hay đầu tư vào dự án xin vay vốn Ngân hàng. Tỷ lệ vốn tự có và vốn tự huy động của hộ sản xuất càng cao thì khả năng an toàn vốn cho vay của Ngân hàng cũng tỷ lệ thuận. Ngược lại tài sản của hộ gia đình không có gì đáng giá, vốn tự có tham gia dự án hầu như không có, khả năng tự huy động vốn thấp thì mức độ an toàn vốn cho vay của Ngân hàng cũng thấp.

Năng lực tài chính của khách hàng còn thể hiện ở dự án, phương án vay vốn có khả năng thực thi hiệu quả càng cao thì mức độ rủi ro càng thấp, khách hàng có khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng. Do đó chất lượng tín dụng cũng đảm bảo và an toàn.

Đảm bảo cho khoản vay: Có nhiều loại đảm bảo cho một khoản vay Ngân hàng. Tuy nhiên bất cứ loại bảo đảm nào để được Ngân hàng chấp nhận phải cần thỏa


mãn 3 yêu cầu: dễ được định giá; dễ cho Ngân hàng được quyền sở hữu hợp pháp; dễ tiêu thụ hay thuận tiện sử dụng.

Bảo đảm có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Trực tiếp khi nó được khách hàng ký thác để đảm bảo cho chính mình, gián tiếp khi nó được một người khác ký thác để đảm bảo cho khách hàng, có 3 loại đảm bảo thường được dùng: cầm cố, chiết khấu thương phiếu; đảm bảo bằng tài sản thế chấp; đảm bảo bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba.

- Truyền thống gia đình và uy tín của người vay:

Nếu trong gia đình không hoà thuận, người chồng hay cờ bạc, rượu chè, nhân thân không tốt, hoặc người vợ hay chơi số đề hụi họ không lành mạnh, rõ ràng ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng Ngân hàng. Truyền thống này còn thể hiện trong gia đình thuận hoà, sinh hoạt nề nếp thường vốn cho vay an toàn hơn. Còn uy tín của người vay được thể hiện ở các lần vay trả trong quá khứ, mức độ trả nợ đúng hạn cũng như khả năng sử dụng có hiệu quả vốn vay. Việc đánh giá uy tín của người vay cần được đánh giá qua nhiều lần vay trả, cho phép loại trừ những yếu tố bất khả kháng tác động đến người vay cũng như mức độ ổn định trong hiệu quả làm ăn, hay tránh được tình trạng lừa đảo của người vay, cố tình vay trả sòng phẳng trong vài lần đầu còn sau đó trở đi thì cố ý lừa đảo vay vốn Ngân hàng.

Truyền thống gia đình và uy tín của người vay cần được dựa trên cơ sở nhận xét của chính quyền, các tổ chức đoàn thể mà người đó là thành viên, qua hàng xóm láng giềng, qua theo dõi của cán bộ tín dụng. Trong điều kiện cho vay vốn tới hộ sản xuất phải dựa trên cơ sở tín chấp, thực hiện cơ chế bảo đảm tiền vay linh hoạt, thì nhân tố này của hộ sản xuất rất quan trọng.

Nhóm nhân tố này liên quan đến khả năng trả nợ (cả gốc và lãi) của khách hàng cho Ngân hàng. Ta sẽ xem xét một số nhân tố cơ bản quyết định khả năng trả nợ của khách hàng.

Uy tín của người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức chung mà còn phải kiểm nghiệm những hoạt động kinh doanh trong quá khứ, hiện tại và phát triển trong tương lai. Uy tín của khách hàng được thể hiện dưới nhiều


khía cạnh đa dạng như: Chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ sản phẩm, mức độ chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm, các quan hệ tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng của Ngân hàng. Uy tín chỉ được khẳng định và kiểm nghiệm bằng kết quả thực tế trên thị trường.

Như vậy nhân tố này ảnh hưởng đến khả năng rủi ro do chủ quan của khách hàng gây nên: Rủi ro về đạo đức, thiếu năng lực trình độ và kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sản xuất của hộ sản xuất. Do đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng. [7] [49]

1.2.3.3. Nhóm nhân tố môi trường hoạt động tín dụng

Phân tích về nhóm nhân tố khách quan từ môi trường hoạt động tín dụng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Hộ sản xuất của NHTM, Nguyễn Văn Tiến (2010) và Trần Văn Dự (2005) cho rằng có các nhân tố sau đây: [7] [49]

- Điều kiện tự nhiên - xã hội:

Điều kiện tự nhiên - xã hội có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng ngân hàng, đặc biệt đối với tín dụng hộ sản xuất. Nếu Ngân hàng hoạt động tín dụng trên một địa bàn có điều kiện tự nhiên thuận lợi, ít bị ảnh hưởng của thiên tai như thời tiết, khí hậu và điều kiện xã hội thuận lợi như chính trị ổn định, mật độ dân số và trình độ dân trí cao, sẽ đem lại hiệu quả và chất lượng cao. Ngược lại khi Ngân hàng kinh doanh trên một địa bàn điều kiện tự nhiên, xã hội không thuận lợi luôn bị ảnh hưởng của thiên tai, trình độ dân trí hạn chế, các phong tục tập quán lối sống lạc hậu sẽ bị ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh. Ví dụ như trình độ dân trí thấp dẫn đến thiếu hiểu biết trong hoạt động kinh doanh, làm ăn thiếu kinh nghiệm, kém hiệu quả, không thông hiểu pháp luật và nhận thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với nợ vay Ngân hàng, từ đó thiếu khả năng trả nợ Ngân hàng, mặt khác còn gây cho Ngân hàng rất nhiều khó khăn trong việc thực thi nhiệm vụ của mình.

Hoặc là khu vực địa lý và hành chính tiến hành hoạt động sản xuất và sinh sống của HSX có hay gặp phải xung đột vũ trang, dân tộc, tôn giáo hay không,…

Xem tất cả 162 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí