phạm nhằm cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao và phát triển nhân tài cho đất nước.
GDĐH ở Việt Nam có hai cấp học là đại học và sau đại học. Cấp đại học đào tạo trình độ đại học và cao đẳng, cấp sau đại học đào tạo trình độ thạc sĩ và tiến sĩ. Cơ sở GDĐH gồm các trường đại học và cao đẳng, ngoài ra còn có thể thực hiện ở các học viện hay viện nghiên cứu khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Theo đó, trí thức GDĐH Việt Nam là một lực lượng xã hội, bao gồm ba bộ phận: giảng viên (chiếm số đông), cán bộ lãnh đạo, quản lý; một số chuyên viên, nhân viên của các phòng, ban tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục ở bậc đại học.
Nhiều người cho rằng, trí thức GDĐH phải có học vấn, học thức cao, có trình độ đào tạo sau đại học. Ngày nay, quan niệm này không sai nhưng rõ ràng là thiếu toàn diện và chưa thể khắc phục được hạn chế khó đo lường về năng lực và sự đóng góp thực tế của trí thức GDĐH. Không thể đánh giá trình độ học vấn và kết quả được đào tạo của trí thức GDĐH chỉ thông qua văn bằng, chứng chỉ. Đó không phải là căn cứ duy nhất và chủ yếu để định danh cho trí thức GDĐH ở nước ta.
Trong điều kiện hiện nay, trước tác động mặt trái của cơ chế thị trường, khi chủ nghĩa thực dụng, vị kỷ đang chi phối đời sống con người thì hiện tượng học giả, bằng thật không còn là điều quá xa lạ trong thị trường. Có một lôgíc cần thừa nhận rằng, “thông tin và tri thức khoa học càng bùng nổ dữ dội bao nhiêu thì “tuổi thọ của văn bằng càng bị rút ngắn bấy nhiêu, nếu chủ nhân của nó không thường xuyên cập nhật được những cái mới” [10, tr.5]. Trước bối cảnh phát triển ngày càng sâu rộng của kinh tế tri thức, nếu trí thức GDĐH Việt Nam không chứng thực được hiệu quả lao động trí óc, sáng tạo của mình bằng giá trị thực trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội thì trình độ được đào tạo của đội ngũ này tự bản thân nó cũng trở nên thiếu tính hữu dụng. Điều hệ trọng này càng trở thành hiển nhiên khi năng lực cũng như đóng góp lao động thực tế của trí thức GDĐH trở nên quan trọng hơn gấp nhiều lần so với những chứng chỉ, văn bằng mà họ có. Hơn nữa, cần
nhận thức thấu đáo rằng, học vấn và bằng cấp được đào tạo của trí thức chỉ có ý nghĩa khi giá trị của nó được đảm bảo, được chứng thực qua năng suất và hiệu quả lao động. Sẽ là siêu hình và sa vào chủ nghĩa hình thức trong đánh giá nếu tuyệt đối hóa một cách cứng nhắc tiêu chí học vấn, bằng cấp mà không xem xét nó trong mối tương quan với năng lực cũng như hiệu quả lao động thực tế của trí thức GDĐH.
Trí thức GDĐH Việt Nam có cơ cấu đa dạng với nhiều bộ môn, nhiều phân ngành. Đại đa số trí thức GDĐH đều là giảng viên, tuy nhiên có một bộ phận trí thức GDĐH đồng thời đóng hai vai trò: người giảng viên và nhà quản lý giáo dục nên thuật ngữ trí thức GDĐH có thể được xem như đồng nhất với thuật ngữ nhà giáo ở bậc đại học. Điều này khách quan đòi hỏi nhân cách của trí thức GDĐH ở nước ta phải là sự tổng hợp những biểu hiện nhân cách nổi trội của người trí thức nói chung và nhà giáo đại học nói riêng. Ở đó, trình độ chuyên môn sâu rộng của người trí thức, nghiệp vụ, năng lực sư phạm bậc cao của nhà giáo, phẩm chất chính trị, đạo đức của nhà khoa học, lý tưởng “trồng người” của nhà giáo phải được hòa quyện, gắn bó với nhau để đạt tới sự thống nhất, đồng điệu trong một chỉnh thể nhân cách - người kỹ sư tâm hồn, nhà khoa học sư phạm. Sự kết hợp đó sẽ trở thành điều kiện cốt yếu để mỗi trí thức GDĐH Việt Nam có thể tự biểu hiện trước người học như một nhân cách, một tấm gương sáng để sinh viên noi theo.
Trong tính chỉnh thể của chính nó, nói đến trí thức GDĐH Việt Nam không thể chỉ nhắc đến cá thể một người mà còn là đội ngũ, tức là bao gồm cả một thế hệ hoặc nhiều thế hệ tạo thành cộng đồng xã hội và được tổ chức thành lực lượng thống nhất. Đây là cộng đồng xã hội của những người có cùng một nghề nghiệp, đó là dạy học và nghiên cứu; cùng có một môi trường, địa bàn để tự biểu hiện mình đó là trường đại học, có thể là trường công lập, ngoài công lập, cũng có thể là trường cao đẳng, các học viện hay viện nghiên cứu. Nói chung, đó là cộng đồng trí thức đặc thù. Họ không chỉ là nguồn lực trí tuệ của quốc gia mà còn là lực lượng căn bản, chủ yếu và có ý nghĩa quyết định nhất đến quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 2
- Những Công Trình Nghiên Cứu Ở Nước Ngoài Liên Quan
- Những Giá Trị, Hạn Chế Của Các Công Trình Nghiên Cứu Có Liên Quan Đến Luận Án Và Những Vấn Đề Luận Án Tiếp Tục Làm Sáng Tỏ
- Lao Động Của Trí Thức Giáo Dục Đại Học Là Lao Động Sư Phạm
- Sản Phẩm Lao Động Của Trí Thức Giáo Dục Đại Học Góp Phần Phát Triển Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Của Đất Nước
- Tiêu Chí Đánh Giá Chất Lượng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Việt Nam Hiện Nay
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
đồng thời tham gia hoạch định đường lối, chính sách, tổ chức thực hiện chủ trương GDĐH trong thực tiễn nhà trường và các cơ sở đào tạo, NCKH.
Trong giai đoạn hiện nay, việc hình dung diện mạo nhân cách của trí
thức GDĐH ở nước ta đòi hỏi phải nhìn nhận họ đồng thời với hai tư cách:
Trước hết, họ là một công dân mà đây là công dân sinh sống trong điều kiện đổi mới, có dân chủ hóa, có Nhà nước pháp quyền đang trên con đường hoàn thiện. Hơn nữa, là người thầy thì trí thức GDĐH phải là tấm gương sáng cho học trò cho nên họ là công dân gương mẫu chấp hành pháp luật bằng tất cả sự giác ngộ trí tuệ của mình, bằng lý trí, bằng tình cảm, gắn liền giữa tình cảm yêu nước, yêu dân với giác ngộ lý tưởng về chủ nghĩa xã hội để xây dựng một Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp, văn minh, hiện đại, sánh vai với các cường quốc như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Tư cách thứ hai của trí thức GDĐH Việt Nam - họ là người lao động mà đây là lao động trí óc trong điều kiện kinh tế tri thức phát triển sâu rộng, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, cạnh tranh. Bởi vậy, trí thức GDĐH Việt Nam chân chính cần có ý thức và tinh thần dân tộc, tự giác nhận lấy trách nhiệm của mình trong việc nâng cao trình độ cho dân chúng; đem tài năng, trí tuệ, sức lực và nhiệt tâm của mình phụng sự cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát triển những thế hệ con người mới xã hội chủ nghĩa cho quốc gia, dân tộc.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, trí thức GDĐH đang là nguồn nhân lực đặc biệt quan trọng đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH trước đòi hỏi ngày càng cao của kinh tế tri thức, của quá trình hội nhập và quốc tế hóa GDĐH. Trên ý nghĩa đó, vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam ngày càng được định hình rõ nét:
Một là, trí thức GDĐH Việt Nam phải trực tiếp gắn kết đào tạo với NCKH, liên kết các hoạt động của nhà trường với sản xuất và dịch vụ cộng đồng thông qua giảng dạy, nghiên cứu ứng dụng, triển khai có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ vào giảng dạy, học tập và đời sống cộng đồng.
Hai là, trí thức GDĐH Việt Nam là lực lượng nòng cốt trực tiếp xây dựng nền Giáo dục đại học Việt Nam tiên tiến, góp phần quan trọng vào chấn hưng giáo dục nước nhà.Tác động và quyết định đến chất lượng GDĐH có nhiều yếu tố khác nhau nhưng tâm điểm của mọi nguồn lực lại thuộc về vai trò của trí thức nhà giáo, bởi chỉ có họ mới giải quyết được những thách thức trong chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; trong chức năng sản xuất, tái sản xuất ra “hàng hoá” với sản phẩm đặc biệt: Con người trí tuệ. Họ là lượng xung kích, là những chiến sĩ trên mặt trận nâng cao chất đào tạo đại học hướng vào mục tiêu: tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, đưa giáo dục đại học nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Ba là, với tư cách là nguồn lực trí tuệ, trí thức GDĐH Việt Nam trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng đội ngũ chuyên gia, những nhà khoa học đáp ứng yêu cầu về chất lượng lao động của nền kinh tế - xã hội và yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, trí thức GDĐH Việt Nam cũng trực tiếp thực hiện việc bồi dưỡng và gây dựng các tài năng khoa học, hình thành và phát triển ở thế hệ trẻ những nhân cách sáng tạo, trung thực, có hoài bão lớn, có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh khoa học vững vàng đủ sức tạo động lực trực tiếp cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
Bốn là, trí thức GDĐH Việt Nam góp phần nâng cao tiềm lực khoa học
- công nghệ quốc gia. Với trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu, đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta phải đóng vai trò động lực thúc đẩy việc nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ bằng nỗ lực khai sáng, quảng bá thông tin, tri thức, thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ trong nhân dân và đời sống xã hội. Họ là lực lượng tiên phong và có sức ảnh hưởng lớn đến đổi mới tư duy, xây dựng phong cách tư duy khoa học nâng cao năng lực trí tuệ của con người để làm chủ được những công nghệ tiên tiến của thế giới, khai thác nó một cách hợp lý và hữu ích vào việc tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy tiến bộ xã hội, từng bước phát triển lý luận, gây dựng nền khoa học - công nghệ tiên tiến của nước nhà.
Năm là, trí thức GDĐH Việt Nam là lực lượng đem tài năng sáng tạo, nhiệt huyết, trách nhiệm của mình vào việc xây dựng các luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các chính sách giáo dục đại học, phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ.
2.1.3. Quan niệm về lao động của trí thức giáo dục đại học
Ph.Ăngghen khẳng định, “lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người” [98, tr.641]. Qua đó, “con người nhân đôi mình không chỉ về mặt trí tuệ như xảy ra trong ý thức nữa, mà còn nhân đôi mình một cách hiện thực, một cách tích cực và con người ngắm nhìn mình trong thế giới do mình sáng tạo ra” [99, tr.282]. Lao động theo nghĩa chung nhất, “trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự nhiên” [95, tr. 230].
Xét về bản chất, “lao động là một hoạt động tích cực và sáng tạo” [100, tr.119]. Bằng cách sử dụng công cụ và các tư liệu lao động tác động lên đối tượng lao động để biến đổi nó thì con người đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình, phát triển những khả năng, mở rộng và làm phong phú thêm kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo trong lao động, trong hoạt động sống một cách tích cực, sáng tạo. Chính vì vậy, quá trình lao động luôn chứa đựng trong nó và được thể hiện ra ngoài như là quá trình tự biểu hiện, tự khẳng định của cá nhân. Xét đến cùng, “lao động - đó là địa hạt cơ bản của quyền con người, quyền công dân” [12, tr.198] và lẽ dĩ nhiên, đó phải là lao động tự giác, làm chủ, lao động cho mình và cho xã hội.
Tiếp cận lao động của trí thức GDĐH theo những phương diện nêu trên, cần xem đó là quá trình tác động có mục đích của nhà giáo đến đối tượng người học nhằm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tham gia lao động như một chủ thể sáng tạo, trí thức GDĐH phải sử dụng linh hoạt những phương pháp, kỹ năng sư phạm, kỹ năng nghiên cứu để khai thác, tìm tòi, khảo nghiệm những tri thức khoa học; để ứng dụng và
chuyển giao những thành tựu khoa học công nghệ; để giáo dục và tạo ra sự biến đổi nhất định ở đối tượng người học theo chiều hướng tích cực; để tổ chức, quản lý hoạt động giáo dục một cách có hiệu quả. Thông qua hoạt động lao động này, trí thức GDĐH cũng dần phát triển, hoàn thiện chính bản thân mình. Ở đó, “trình độ chín muồi của nhân cách, của tư tưởng, trình độ đạo đức và văn hóa” [7, tr.22] của trí thức GDĐH có thể tìm thấy những biểu hiện đích thực và được bồi dưỡng, rèn rũa trong lao động nghề nghiệp.
Lao động của trí thức GDĐH cần được nhìn nhận trên các bình diện chủ yếu sau:
Thứ nhất, với ý nghĩa là một công việc, lao động của trí thức GDĐH là hoạt động lao động nghề nghiệp chuyên môn - giáo dục và đào tạo ở bậc đại học mà đặc trưng nổi bật là hoạt động khoa học sư phạm, là truyền thụ học vấn, đào tạo hướng nghiệp và đào tạo con người. Bản thân những hoạt động ấy đã chứa đựng các yêu cầu khắt khe về sự tỉ mỉ, cẩn thận, công phu, sáng tạo giống như một loại hình nghệ thuật mà ở đó tính khoa học phải được tôn trọng và bảo đảm. Trên cơ sở không ngừng tích lũy kinh nghiệm, tìm tòi, phát kiến, trí thức GDĐH tham gia vào quá trình truyền bá, chuyển giao chúng cho các thế hệ người học theo những cách thức riêng biệt nhưng tuyệt nhiên không phá vỡ hay phủ định nguyên tắc giáo dục ở bậc đại học. Nhờ vậy, trí thức GDĐH cũng biểu hiện mình như một chủ thể tích cực, sáng tạo trong cơ cấu xã hội - giai cấp nói chung và trong nhóm xã hội - nghề nghiệp nói riêng.
Thứ hai, phù hợp và thống nhất với ý nghĩa lao động nói chung, lao động của trí thức GDĐH cũng cần được xem xét như một giá trị, như là “nguồn gốc của những giá trị vật chất và tinh thần” [7, tr.22]. Điều đó có nghĩa rằng, nó được đảm bảo bởi sự hao phí sức lao động trí óc với hàm lượng cao chất xám. Sức lao động ấy được kết tinh trong sản phẩm lao động, tức người học với tư cách là kết quả trực tiếp nhất của hoạt động giảng dạy; các phát minh, sáng chế được ứng dụng trong thực tiễn với tư cách là sản phẩm của NCKH; những chủ trương, chính sách phát triển đội ngũ, các chương trình, kế hoạch hoạt động đào tạo với tư cách là kết quả của lao động
lãnh đạo, tổ chức, quản lý giáo dục ở bậc đại học. Mỗi thành công trong giảng dạy hay mỗi đóng góp mới trong nghiên cứu cũng như trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của trí thức GDĐH đều góp phần xây dựng tiềm lực trí tuệ cho dân tộc và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ ba, tiếp cận lao động của trí thức GDĐH trên bình diện chức năng, có thể xem dạy chữ - dạy người - dạy nghề là ba hoạt động thống nhất trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chức năng ấy lại được biểu hiện cụ thể thông qua hoạt động giảng dạy; NCKH, ứng dụng và chuyển giao công nghệ; lãnh đạo, quản lý giáo dục. Phần lớn trí thức GDĐH là giảng viên nên họ tham gia hoạt động giảng dạy và NCKH là chủ yếu, ngoài ra một bộ phận trí thức GDĐH trực tiếp đảm trách hoạt động lãnh đạo, quản lý giáo dục, thậm chí một số ít trí thức GDĐH còn thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ nêu trên. Với ý nghĩa đó, lao động của trí thức GDĐH là lao động khoa học nhằm đào tạo và phát triển con người với mục tiêu hình thành con người xã hội, con người văn hóa ở trình độ cao. Lao động của trí thức GDĐH do đó sẽ phản ánh tập trung nhất vai trò và những đóng góp to lớn của đội ngũ này trong việc xây dựng tiềm lực trí tuệ cho đất nước. Tính hướng đích vì con người với mục tiêu nhân văn cao cả là xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị phương pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo cho các thế hệ người học được trí thức GDĐH nhận thức và tự giác biểu hiện qua thực tiễn lao động của chính mình. Như vậy, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của thời đại đang trở thành hệ giá trị và lý tưởng sống cao đẹp của trí thức GDĐH. Với trọng trách ấy, lao động của trí thức nhà giáo ở bậc đại học có giá trị sử dụng to lớn, nó mang lại hiệu quả cấp số nhân trong nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh kinh tế tri thức đang phát triển sâu rộng hiện nay.
Thứ tư, cần xem lao động của trí thức GDĐH, trước hết là lao động cá nhân nhưng chính đặc thù nghề nghiệp đã mang lại và đòi hỏi một cách nghiêm ngặt tính tập thể, tính phổ biến, tính tương tác và đồng thuận trong
cộng đồng trí thức GDĐH. Trên thực tế, bản thân một người thầy không thể đơn phương tự tạo nên “sản phẩm” hoàn thiện thông qua một giờ giảng, một học phần, trái lại, họ phải được tổ chức thành lực lượng thống nhất, đoàn kết, có sự đồng thuận giữa các chủ thể trí thức GDĐH trong tập thể sư phạm. Sự tác động trái chiều của đội ngũ trí thức GDĐH đến đối tượng người học sẽ tạo nên những phản cảm khó tránh khỏi trong giáo dục. Hơn nữa, không ở đâu, không khi nào, chỉ bằng hoạt động giáo dục một chiều từ phía nhà giáo mà nhân cách người học được phát triển toàn diện, trái lại, nó phải là kết quả của sự tương tác giữa thầy và trò. Triết lý giáo dục giờ đây đòi hỏi rất cao tính đồng thuận từ các chủ thể giáo dục. Đó không chỉ là cơ sở, tiền đề mà đã trở thành yêu cầu cốt yếu và là ngọn nguồn sâu xa để có những tác động sư phạm cùng chiều đến đối tượng người học, để bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực theo những mục tiêu thống nhất.
2.2. TÍNH ĐẶC THÙ CỦA LAO ĐỘNG TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Với tư cách là một bộ phận của trí thức Việt Nam, trí thức GDĐH ở nước ta mang trong mình đầy đủ những tố chất cơ bản của người trí thức nói chung. Ngoài ra, lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp đã quy định một số nét đặc thù trong lao động của trí thức nhà giáo ở bậc đại học. Đó vừa là tiêu chí lao động nghề nghiệp vừa như những đòi hỏi được đặt ra từ điều kiện của đổi mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH, của hội nhập, mở cửa, của phát triển mạnh mẽ kinh tế tri thức mà mỗi nhà giáo ở các cơ sở đào tạo đại học Việt Nam phải đáp ứng một cách nghiêm túc. Có thể kể đến những yêu cầu cơ bản sau:
2.2.1. Lao động của trí thức giáo dục đại học là lao động trí óc, sáng tạo
Lao động của trí thức GDĐH trước hết là lao động trí óc. Dĩ nhiên, không có lao động trí óc nào lại tách rời tuyệt đối khỏi lao động chân tay, nhưng tính đặc thù trong lao động của họ biểu hiện ở việc thường xuyên phải huy động trí lực, phát huy sức sáng tạo của tư duy, ở hàm lượng chất xám cao kết tinh trong sản phẩm. Lao động hao phí của trí thức GDĐH không chỉ được tính đến sức lực cơ bắp mà quan trọng hơn và chủ yếu nhất vẫn là yếu tố trí