Kinh Nghiệm Của Một Số Quốc Gia Châu Âu (Thành Viên Oecd)

phủ thực hiện sở hữu tài sản đối với người lao động, tạo cho người lao động cơ hội để cải thiện thu nhập; (3) Tăng cường sự tham gia của quần chúng vào quản lý các doanh nghiệp nhà nước, tạo sức ép của các cổ đông để doanh nghiệp được tự chủ hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế sự can thiệp của Chính phủ làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp; (4) Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp được CPH toàn dân vì chúng là những công ty có vị trí chiến lược trong công nghiệp và tiêu dùng xã hội. (5) Chính phủ muốn thúc đẩy sự phát triển vững chắc thị trường chứng khoán trong nước, tạo điều kiện cho quá trình phân phối vốn một cách hợp lý, hiệu quả trong các khu vực, các ngành kinh tế của đất nước. [65, tr.110]

2.2.1.3. Kinh nghiệm của Singapore

- Đặc điểm cổ phần hóa DNNN của Singapore

Mô hình hoạt động và quản lý DNNN ở Singapore gắn liền với mô hình hoạt động của Temasek. Về thực chất, Temasek là một công ty nắm vốn đầu tư Nhà nước, có các doanh nghiệp thành viên thuộc danh mục đầu tư của Temasek, là một đạng tập đoàn kinh tế nhà nước. Temasek được Singapore thành lập để quản lý các khoản đầu tư và tài sản tích tụ được mà trước đó do Bộ Tài chính Singapore quản lý. Tiếp đó, trong những năm 1990 chính phủ Singapore tiến hành công ty hóa các cơ quan nhà nước có bộ phận kinh doanh và chuyển giao sang Temasek. Mục đích thành lập Temasek nhằm tìm ra cách thức quản lý tốt hơn đối với các DNNN và các khoản đầu tư của Singapore, và giúp Bộ Tài chính Singapore tập trung vào vai trò xây dựng chính sách và quản lý nhà nước.

- Những biện pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Singapore

Mô hình tổ chức, hoạt động của Temasek

Temasek thành lập, đăng ký, hoạt động theo Luật Công ty Singapore như là một doanh nghiệp tư, được miễn trừ nghĩa vụ cung cấp các báo cáo tài chính, được miễn trừ công bố công khai. Temasek là một tổ chức kinh doanh thuần tuý, với cam kết về mặt chính sách được hoạt động trên cơ sở thương mại, tách bạch với vai trò là công cụ chính sách và điều hành thị trường của

chính phủ. Temasek hướng tới thu hút nhân tài, xây dựng đội ngũ lãnh đạo có tư duy và thúc đẩy quản trị tốt tại các doanh nghiệp trong danh mục đầu tư.

Temasek không tham gia vào HĐQT của đa số các doanh nghiệp trong danh mục đầu tư của mình. Temasek chỉ thiết lập chế độ quản trị công ty tại các doanh nghiệp, hỗ trợ để tạo ra các HĐQT có năng lực cao, có kinh nghiệm kinh doanh đa dạng. Temasek không can thiệp vào các quyết định điều hành của các doanh nghiệp trong danh mục đầu tư. Việc này do HĐQT và ban điều hành của các doanh nghiệp trong danh mục đầu tư tự quản lý, điều hành và giám sát. Trong những trường hợp cần thiết, Temasek chủ động làm việc với các bên có liên quan, gồm cả HĐQT, ban điều hành, hoặc tổ chức các cuộc trao đổi, hội thảo.

Mô hình quản lý đối với Temasek

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 213 trang tài liệu này.

Trong Temasek, Chính phủ đóng vai trò là chủ sở hữu, đảm bảo việc thành lập, tổ chức HĐQT để định hướng, đảm bảo sự chặt chẽ trong quá trình đầu tư. Temasek được quản lý, điều hành một cách độc lập bởi HĐQT và ban điều hành, hướng vào mục tiêu tối đa hóa thu nhập trên vốn đầu tư cho chủ sở hữu. Thành viên HĐQT do Ban phát triển lãnh đạo và khen thưởng của Temasek giới thiệu, quyết định thuộc về HĐQT. Đa số thành viên HĐQT là những thành viên độc lập, không điều hành. Đó là những nhà lãnh đạo kinh doanh đến từ khu vực tư nhân. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, thay thế thành viên HĐQT, kể cả tổng giám đốc do HĐQT bổ nhiệm, thay thế phải được sự đồng ý của Tổng thống nhằm giám sát tính liêm chính của thành viên HĐQT và tổng giám đốc vì họ có liên quan đến việc bảo vệ các tài sản đã được tích tụ của Temasek

Trong mối quan hệ với Nhà nước, Temasek thuộc sở hữu nhà nước, nhưng nhà nước Singapore không can thiệp vào các hoạt động đầu tư, thoái vốn đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác. Temasek chịu trách nhiệm trước Nhà nước thông qua HĐQT, Tổng Giám đốc về việc bảo vệ các tài sản của mình.

Mô hình quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa: nghiên cứu trường hợp Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam - 12

Trong thực hiện các nguyên tắc quản trị công ty, Temasek thiết lập khung quản lý dựa trên các nguyên tắc thương mại và có quy trình; cơ chế đãi ngộ nhân viên gắn với thu nhập của chủ sở hữu trong dài hạn; việc kiểm toán

được thực hiện thông qua các công ty kiểm toán quốc tế; công bố thông tin rộng rãi tạo điều kiện cho các đối tác và các bên có liên quan theo dõi và nắm bắt được kết quả hoạt động kinh doanh của Temasek.

Temasek xác định cổ tức hàng năm để xem xét tại cuộc họp thường niên. Cổ tức do HĐQT đề xuất có tính toán, cân nhắc để cân đối giữa đóng góp cho chủ sở hữu và tái đầu tư cho tương lai. Temasek vừa nộp cổ tức cho chủ sở hữu, vừa nộp thuế lợi tức, thông qua đó đóng góp ổn định cho ngân sách nhà nước.

Chính sách giải quyết những vấn đề trong quá trình CPH DNNN

Quá trình thực hiện cổ phần hóa ở Singapore, nhà nước đã sớm soạn thảo một chương trình CPH có hệ thống phù hợp với đặc điểm tình hình trong nước. Thành lập một Ủy ban tư nhân hóa khu vực kinh tế nhà nước để đề ra chương trình CPH hoàn chỉnh dự định kéo dài trong 10 năm. Các DNNN làm ăn có lãi được chọn là đối tượng CPH trước tiên. Thành công nhất trong CPH ở Singapore là đã không để xẩy ra tình trạng thâm hụt ngân sách, vẫn duy trì được mức tăng trưởng và tích lũy cao. Do vậy, hầu hết các mục tiêu CPH Singapore đề ra đều đã đạt được. [77]

2.2.1.4. Kinh nghiệm của Nhật Bản

- Đặc điểm cổ phần hóa DNNN của Nhật Bản

Quá trình thực hiện cổ phần hóa ở Nhật Bản cũng có nét tương đồng với các nước tư bản phát triển. Nhật Bản cũng có các DNNN có sở hữu toàn phần hay từng phần của nhà nước. Xét về mặt sở hữu, các DNNN ở Nhật Bản được chia thành hai loại: (1) Nhà nước có 100% vốn gồm các doanh nghiệp trực thuộc Bộ hoặc tổ chức tự quản địa phương. (2) Loại doanh nghiệp Nhà nước có một phần vốn góp dưới hình thức CTCP hỗn hợp nhà nước và tư nhân.

Quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN ở Nhật Bản cũng có những đặc điểm riêng. Đầu những năm 1980, Nhật Bản đã tiến hành rộng rãi thảo luận về các vấn đề cổ phần hóa. Sau đó, Nhật Bản tiến hành thành lập Ủy ban lâm thời trực thuộc Thủ tướng. Ủy ban có nhiệm vụ nghiên cứu tình hình hoạt động và phát triển khu vực kinh tế Nhà nước, đề xuất các vấn đề về cổ phần hóa, những giải pháp để thay đổi sự can thiệp của Nhà nước vào các DNNN, đưa ra danh mục các doanh nghiệp sẽ cổ phần hóa dưới các hình thức khác nhau.

Cổ phần hóa DNNN ở Nhật Bản được xem xét điển hình ở hai Công ty quốc doanh lớn đã được tiến hành cổ phần hóa. Đó là Công ty Điện thoại, điện tín quốc gia (Nippon Telephone and Telegraph - NTT) và Công ty Đường sắt Quốc gia Nhật Bản (Japan National Railroad - JNR). Mục đích cổ phần hóa NTT và JNR nhằm: Tăng cường quản lý; thúc đẩy cạnh tranh thông qua việc điều chỉnh lại luật lệ để xóa bỏ độc quyền, giảm cước phí thông tin và vận tải; giảm bớt gánh nặng tài chính của Chính phủ; cải thiện mối quan hệ giữa người chủ và người làm công bằng thay đổi các quan hệ lợi ích trong CTCP [103, tr.64]

- Những biện pháp đổi mới DNNN sau CPH của Nhật Bản

Những cải cách về chính sách đối với DNNN

Chính phủ Nhật Bản đã tích cực thay đổi quy chế hoạt động của các DNNN thành CTCP, cho phép công ty được quyền tự chủ tiến hành những cải cách về tổ chức như: Áp dụng hệ thống các chi nhánh tự chủ, mở rộng mạng lưới tiêu thụ bằng việc xây dựng thêm các công ty nhánh, các viện nghiên cứu khoa học và công nghệ, áp dụng các nguyên tắc trả lương theo khả năng. Trong cải cách DNNN, Nhật Bản còn thi hành các biện pháp giảm chi phí như tổ chức lại lao động một cách hợp lý, tinh giản lao động, tiết kiệm vốn đầu tư, tổ chức mạng lưới dịch vụ thông tin hợp lý.

Thông qua việc đẩy mạnh cải cách các chính sách đối với DNNN, bãi bỏ các quy định độc quyền, tiến hành quá trình cổ phần hóa đã mang lại lợi ích rất lớn. Nhà nước đã thu được khoản lớn ngân sách qua việc bán cổ phần và sử dụng để thanh toán các khoản nợ nhà nước, tài trợ cho các hoạt động công cộng và kích thích hoạt động kinh doanh tư nhân. Ngoài ra Chính phủ còn có nguồn thu nhập dưới hình thức lợi tức từ các cổ phần của mình trong công ty. Đối với công ty, quy mô vốn đã tăng lên, thúc đẩy công ty đầu tư mạnh mẽ hơn trước, tác động đến việc phát triển mạnh mẽ của công ty và tăng trưởng chung của nền kinh tế mà không phải dựa vào nguồn vốn tài trợ của ngân sách.

Đổi mới tổ chức, quản trị trong quá trình cổ phần hóa

Trong quá trình thực hiện cải cách, tư nhân hóa, cổ phần hóa DNNN, Chính phủ Nhật bản đã tiến hành cải cách, làm gọn cơ cấu hành chính và

giảm gánh nặng ngân sách, đồng thời thực hiện các chính sách tư nhân hóa nhằm điều chỉnh các lĩnh vực kinh doanh giữa nhà nước và tư nhân. Trong trường hợp của công ty JNR, Chính phủ đã chia nhỏ JNR thành 7 công ty đường sắt Nhật Bản (Japan Railroad - JR), sau đó tiến hành cổ phần hóa các công ty này. Chính phủ Nhật Bản cũng ban hành luật mới đối với các công ty được chia ra từ JNR, theo đó các công ty có quyền tự do hơn trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, Chính phủ vẫn giữ quyền kiểm soát một số hoạt động như: kế hoạch kinh doanh, bổ nhiệm và bãi miễn thành viên Hội đồng điều hành, các vấn đề về phát hành cổ phiếu và vay nợ...

Thực hiện đổi mới quá trình cổ phần hóa JNR, Chính phủ Nhật Bản đã thành lập Công ty xử lý ngành đường sắt quốc gia Nhật Bản (Japan National Railroad Setlement Corporation - JNRSC). Công ty JNRSC là người sở hữu toàn bộ cổ phần của các công ty JR cũng như các tài sản khác. Công ty JNRSC có vai trò quan trọng trong việc cổ phần hóa để chuyển đổi JNR thành công ty cổ phần, thực hiện các nhiệm vụ khác như: giải tỏa các khoản nợ dài hạn; chịu trách nhiệm bán các cổ phần, phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho các công ty JR thỏa mãn các điều kiện về cổ phần hóa; đứng ra giải quyết số lao động dư thừa do tiến hành cổ phần hóa JNR. Việc chuyển đổi JNR thành các công ty cổ phần JR có vai trò rất lớn của JNRSC. Sau cải tổ và cổ phần hóa chuyển đổi JNR, trong các công ty JR, hệ thống quản lý được vận hành tốt, hoạt động của ngành đường sắt Nhật Bản đã có sự thay đổi, phát triển và mang lại hiệu quả, năng suất cao. [65, tr.101]

2.2.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Âu (thành viên OECD)

2.2.2.1. Kinh nghiệm của Anh

Trên thế giới, Anh là quốc gia thực hiện cơ chế thị trường tự định rộng rãi nhất. Ngay từ thế kỷ XIX, nước Anh đã có sở hữu trong DN ngành cấp nước. Sau đó (sang thế kỷ XX), nước Anh mở rộng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực như bưu điện, giao thông, dầu khí, phát thanh, điện, hàng không... Ở Anh, nhà nước cũng giám sát giá cả, dịch vụ của một số DN tư nhân hoạt động trong ngành kết cấu hạ tầng. Thời gian sau đó (sau chiến tranh thế giới thứ 2), nhà nước Anh mở rộng đầu tư sang các ngành than, vận tải, sắt thép, ô tô. Tuy nhà nước Anh đầu tư vào các DN có dè dặt nhưng đều có cả mặt đạt được và có cả một số hạn chế.

Chẳng hạn, DNNN trong lĩnh vực hạ tầng hoạt động tốt hơn DN tư nhân cùng ngành ở Mỹ. Tỷ lệ tăng trưởng về năng suất cũng khá tốt, ngang với DN tư nhân. Đồng thời, các DN này còn phải thực hiện các mục đích và quyền lợi công cộng theo hướng cung cấp dịch vụ rẻ, đầy đủ cho công chúng. Tuy nhiên, mặt hạn chế thể hiện ở mức thu lợi của DNNN càng về sau càng giảm sút buộc nhà nước phải tài trợ do DNNN ở Anh gặp khó khăn về tái chính.

Có được thành công của các DNNN ở Anh là do Chính phủ tiến hành đầu tư một cách khá thận trọng, không quốc hữu hóa tràn lan, chỉ lựa chọn những ngành có tính công ích cao. Mặt khác, Chính phủ Anh không cấp vốn trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho DN mà thông qua phát hành trái phiếu DN và trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho DNNN.

Nguyên nhân khó khăn về tài chính là do cuộc suy thoái ở quy mô thế giới những năm 70 - 80 của thế kỷ XX khiến chi phí đầu vào tăng, trong khi đó nhà nước khống chế đầu ra thấp khiến DNNN thu không đủ bù đắp chi phí. Những khó khăn của DNNN đã khiến chính phủ Anh tiến hành quá trình tư nhân hóa sở hữu nhà nước trong DN nhằm hướng đến các mục tiêu như: Tăng hiệu suất một số ngành có đầu tư lớn của Nhà nước; mở rộng diện cổ đông trong DNNN và giảm sức ép cho ngân sách nhà nước. Sau khi giảm sở hữu nhà nước trong DN, một số DN hoạt động tốt hơn, một số DN hoạt động kém hơn. Thực hiện quản lý các DNNN sau CPH, Chính phủ Anh đã thành lập một số cơ quan điều tiết độc lập theo lĩnh vực, tiêu biểu như Ủy ban điều tiết giá ngành viễn thông, ngành điện. Mỗi cơ quan này đều do một Tổng Giám đốc đứng đầu và có quyền tự chủ khá rộng để cân đối lợi ích của DN và người tiêu dùng. [50]

2.2.2.2. Kinh nghiệm của Pháp

Ở Pháp, DNNN xuất hiện khá sớm, quốc hữu hóa đã bắt đầu từ cách mạng Pháp và mở rộng dưới thời Napoleon (1798 - 1815). Thời kỳ này nhà nước đầu tư và khai thác mỏ, công chính và bưu điện.

Thế kỷ XIX, mỗi DNNN ở Pháp đều hoạt động dưới một văn bản pháp lý nhất định, điều chỉnh riêng của Quốc hội và được định kỳ sửa đổi. Nhưng số DNNN được thành lập nhiều nhất là thời kỳ từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1960. Giai đoạn này Nhà nước đâu tư vào công nghiệp hoasdaaud,

ngân hàng, sản xuất máy bay, công nghiệp quốc phòng, đường sắt, hàng không, vận tải biển, bảo hiểm. Từ đây, Nhà nước có tỷ trọng sở hữu trong DN thuộc loại cao so với các nước tu bản khác và đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong quản lý DNNN hoạt động phù hợp với kinh tế thị trường.

Giai đoạn 1945 - 1974: DNNN được dùng như một công cụ để tái thiết đất nước sau chiến tranh. Cục ngân khố huy động nguồn tài chính cung cấp cho các DNNN đảm trách nhiệm vụ xây dựng lại cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế, các bộ chuyên ngành tiến hành thẩm định kế hoạch và tình hình tài chính để đánh giá yêu cầu của DNNN, DNNN tiến hành các hoạt động tái thiết thực tế. Cơ chế điều hành DNNN tương tự như cách điều hành công vụ. Công đoàn có đại biểu trong hội đồng quản trị DNNN, tham gia quản lý DN cùng với đại diện của các cơ quan hành chính khác.

Sau năm 1954, nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước cung cấp cho DNNN giảm bớt, vốn huy động từ thị trường tăng lên. Kế hoạch nhà nước chỉ mang tính chỉ dẫn đối với DNNN; quyền tự chủ của DNNN mở rộng, đi đôi với việc Chính phủ mở rộng cửa với thị trường châu Âu, đầu tư lớn cho chiến lược phát triển công nghiệp, khuyến khích nghiên cứu trong các cơ quan nhà nước và lãi suất thị trường thấp, các DNNN có điều kiện hoạt động thuận lợi, thu nhập của người lao động trong DNNN cao hơn thời kỳ trước, nhiều DNNN thực hiện phương thức tiếp nhận thành quả nghiên cứu nhà nước với đơn đặt hàng nhà nước để triển khai các hoạt động DNNN một cách hiệu quả.

Giai đoạn sau 1974: Đây là giai đoạn nhiều DNNN gặp khó khăn nên Chính phủ phải đầu tư hàng loạt vào các ngành kinh tế và trở lại bao cấp cho người lao động trong khu vực DNNN. Cùng với các giải pháp đó, Chính phủ đã tiến hành quốc hữu hóa các DN tư nhân thua lỗ, tái cấp vốn cho các DN này hoạt động. Đồng thời, nhà nước gây áp lực buộc các DN phải tái cơ cấu theo hướng giảm thiểu chi phí, sa thải ồ ạt trong lĩnh vực có cạnh tranh, đầu tư ra nước ngoài, tiến hành tự động hóa, nhờ các biện pháp đó, các DN đã được phục hồi trở lại.

Việc quản lý DNNN trong môi trường KTTT tại Pháp cho thấy, việc thực hiện vai trò cổ đông của Nhà nước khá khó khăn. Việc đầu tư thêm hay rút vốn nhà nước khỏi các DNNN phụ thuộc vào quy định của luật pháp với sự cứng

nhắc nhất định và chịu sự kiểm soát của Hội đồng hiến pháp và ủy ban tư hữu hóa. Vốn nhà nước đầu tư do ba cơ quan quản lý: Ngân khố quản lý về tài sản; ngân sách quản lý về tài chính; các bộ chuyên trách về kỹ thuật. Cơ cấu Hội đồng quản trị DNNN cũng gồm ba nhóm: Nhóm đại diện cho nhà nước là những người bảo vệ cho quyền lợi ngành nghề do Bộ phụ trách; nhóm đại diện cho công nhân viên chức; nhóm những cá nhân có trình độ chuyên môn phải biểu quyết ủng hộ nhà nước để nhà nước có quyền đa số. Từ phương thức này, ở Pháp trong thời kỳ này đã dẫn đến xuất hiện các ý kiến đòi tự chủ hóa chức năng quản lý tài sản của Nhà nước và giao độc quyền thực hiện chức năng này cho một cơ quan hành chính hay một bộ phận độc lập chuyên trách. Các phương án đã được đề ra như thành lập bộ chuyên trách, các công ty tài chính nhà nước hay quy chế quản lý thống nhất từ nhà nước cũng được đề nghị. Do đó, quản lý DNNN ở Pháp vẫn còn thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và kết quả đem lại có cả thành công và thất bại. [50]

2.2.2.3. Kinh nghiệm của Hà Lan

Doanh nghiệp nhà nước xuất hiện ở Hà Lan từ những năm 1870 trong một số lĩnh vực kinh doanh gas, điện, bưu điện, than. Sau năm 1930, số DNNN ở Hà Lan tăng nhanh trong các ngành kênh đào, vận chuyển, ngân hàng. Tuy nhà nước có cổ phần lớn ở các công ty này nhưng việc quản lý công ty được giao cho giới quản trị doanh nghiệp với quyền tự chủ như DN thuộc sở hữu tư nhân. Nhà nước không can thiệp vào việc bổ nhiệm cán bộ cấp dưới cấp Tổng giám đốc. Sổ sách kế toán của DNNN cũng được thực hiện như DN tư nhân. Nhà nước Hà Lan thành lập DNNN chỉ nhằm mục đích cung cấp một số hàng hóa, dịch vụ cơ bản cho dân cư với giá rẻ mà không cần mục tiêu kiểm soát nền kinh tế (đây là kiểu DN bán công cộng).

Sau năm 1950, Chính phủ Hà Lan đã tiến hành bán cổ phần nhà nước cho tư nhân và buộc DNNN phải nộp các khoản thuế như DN thuộc sở hữu tư nhân. Mặt khác, nhà nước Hà Lan cũng sáp nhập các DNNN nhỏ thành DN lớn hơn, giảm đầu tư trực tiếp, thay thế bằng tài trợ cho DN tư nhân phát triển công nghiệp. Sau đợt suy thoái đầu những năm 80, Chính phủ Hà Lan bán nhiều hơn nữa cổ phần nhà nước tại các công ty bán công cộng.

Xem tất cả 213 trang.

Ngày đăng: 09/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí