của lao động trí óc, sáng tạo trong khoa học sư phạm bậc cao mà trí thức GDĐH là chủ thể. Thước đo này có sức mạnh của sự thẩm định, đánh giá qua thời gian bởi thực tiễn, bởi thị trường lao động và tất cả các chủ thể có lợi ích thiết thân, gắn bó với GDĐH. Điều đó đòi hỏi phải hình thành tiêu chí đánh giá chất lượng lao động của trí thức GDĐH theo tinh thần đổi mới, đảm bảo tính chuẩn hóa làm cơ sở để nhận thức, khảo sát, đánh giá thực trạng và phát hiện những vấn đề đặt ra trong chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
Chương 3
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Mức độ đáp ứng tiêu chuẩn nhà giáo của đội ngũ trí thức
giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
Có thể bạn quan tâm!
- Sản Phẩm Lao Động Của Trí Thức Giáo Dục Đại Học Góp Phần Phát Triển Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Của Đất Nước
- Tiêu Chí Đánh Giá Chất Lượng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Việt Nam Hiện Nay
- Nâng Cao Chất Lượng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Là Yêu Cầu Nội Tại Của Quá Trình Đổi Mới Căn Bản, Toàn Diện Giáo Đục
- Kết Quả Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Việt Nam Hiện Nay
- Mức Độ Hài Lòng Của Giảng Viên, Sinh Viên Và Các Chủ Thể Sử Dụng Sản Phẩm Giáo Dục Đại Học Đối Với Kết Quả Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức
- Một Số Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Chất Lượng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Việt Nam Hiện Nay
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
Cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta và sự mở rộng qui mô đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đã không ngừng được bổ sung lực lượng, nâng cao về chất lượng, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn nghề nghiệp và hoàn thành nhiệm vụ theo luật định.
+ Mức độ đáp ứng về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ trí thức GDĐH.
Phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu của người giảng viên đại học. Sớm nhận thức đặc thù lao động sư phạm không đơn thuần là khoa học mà còn là nghệ thuật “trồng người”, phần lớn trí thức GDĐH nước ta đều coi trọng, giữ gìn nhân cách, uy tín, danh dự của người thầy. Bối cảnh thế giới ngày nay đang diễn ra nhiều biến động chính trị lớn, sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, những bế tắc trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang tác động đến lập trường chính trị, tư tưởng của quần chúng nhân dân. Song đa số trí thức GDĐH không vì thế mà phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa hay giảm sút niềm tin vào chế độ. Họ là lực lượng có lập trường chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong ý thức cũng như hành động, phần lớn trí thức GDĐH luôn tôn trọng và thực hiện đúng, đầy đủ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như nội qui, qui định của trường, khoa, tổ bộ môn và nghiêm túc chấp hành qui chế chuyên môn.
Tôn trọng nhân cách người học, đối xử công tâm, khách quan, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người học là yêu cầu, là nguyên tắc cơ bản trong ngành sư phạm mà phần lớn trí thức GDĐH đều nỗ lực thực hiện, xem đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ phụng sự nhân dân. Nhìn vào đội ngũ giảng viên ở nước ta hiện nay, có thể thấy những tấm gương nhà giáo luôn hết lòng vì học sinh, vì sự nghiệp giáo dục. Không ít nhà giáo đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong những thế hệ học trò về tinh thần lao động nhiệt huyết, phấn đấu thi đua, học tập, lao động sáng tạo, tận tâm, tận lực trong từng tiết giảng. Đánh giá về đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo nêu rõ: “Về cơ bản, đại bộ phận nhà giáo nước ta có phẩm chất đạo đức tốt, tận tụy với nghề nghiệp, có ý thức vươn lên, có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào tạo” [169].
Nhà trường và xã hội luôn đòi hỏi “mỗi thầy cô giáo là tấm gương sáng cho học sinh noi theo”, điều này có lẽ bất kỳ trí thức nhà giáo nào cũng thuộc, song có thể chưa thấu suốt đầy đủ ý nghĩa, hoặc thiếu ý thức kiên trì thực hiện. Không thể phủ nhận những biến đổi thang bậc giá trị văn hóa ở phương Tây cùng với quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta đang ảnh hưởng sâu sắc đến tâm tư, nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, trong đó có trí thức GDĐH. Phần lớn giảng viên luôn coi trọng nhiệm vụ giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo nhưng vẫn còn không ít nhà giáo thiếu gương mẫu trong rèn luyện đạo đức, tác phong, lối sống. Họ đặt tiền tài, địa vị, quyền chức, danh vọng cá nhân thành mục đích của lao động và cuộc sống. Quan niệm lệch lạc đó đã dẫn tới xem nhẹ việc giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo. Một bộ phận trí thức GDĐH thiếu tôn trọng nhân cách của sinh viên, chưa đối xử công bằng và tỏ rõ sự thiếu hụt văn hóa ứng xử trong quan hệ thầy - trò. Một số trí thức nhà giáo còn có biểu hiện phai nhạt lý tưởng, có thái độ bàng quan, thờ ơ về chính trị, thiếu quyết tâm vượt khó vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Tình trạng lao động hình thức, tắc trách thậm chí vi phạm đạo đức, lối sống ở một bộ phận nhỏ giảng viên đại học vẫn chưa được khắc phục, gây ảnh hưởng xấu tới danh dự, uy tín của trí thức nhà giáo mà xưa nay vốn được tôn vinh trong xã hội. Sự thiếu trung thực trong học tập, bao che cho những hành vi tiêu cực trong dạy, học và thi cử; tình
trạng bỏ giờ, bỏ buổi, dạy cắt xén chương trình; tình trạng thương mại hóa giáo dục ở một bộ phận nhà giáo vẫn còn tồn tại. Đó là biểu hiện tạo nên không ít phản cảm trước những tấm gương lao động tự giác, tận tâm, tận lực trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nguyên nhân của hạn chế nêu trên có thể được lý giải từ nhiều góc độ. Do bản thân trí thức GDĐH chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của những phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp đối với việc giáo dục nhân cách cho sinh viên nói riêng, đối với chất lượng lao động sư phạm bậc cao nói chung. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, lãnh đạo tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhà giáo chưa được quan tâm đúng mức. Mặt trái của cơ chế thị trường cùng với những biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội đã tác động vào đời sống học đường, làm xói mòn giá trị đạo đức thanh cao vốn có của người thầy giáo. Hơn nữa, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm chưa được triển khai có hiệu quả.
+ Mức độ đáp ứng trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ trí thức GDĐH.
Trong những năm qua, mạng lưới các trường đại học, qui mô sinh viên và giảng viên không ngừng gia tăng. Tương ứng với sự phát triển về số lượng là sự nâng cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ trí thức GDĐH. Ở tại thời điểm năm học 2012 - 2013, số giảng viên có trình độ thạc sỹ, tiến sĩ, chuyên khoa I và II (đối với ngành Y) chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta. Điều này biểu hiện rõ qua Biểu đồ 3.1.
1%
37.80%
14.30%
Trình độ tiến sĩ Chuyên khoa Thạc sĩ
Đại học
Trình độ khác
0.70%
46.20%
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu trình độ của trí thức giáo dục đại học Việt Nam năm 2012 - 2013
Nguồn: Tính toán từ Số liệu thống kê về giáo dục đào tạo công bố trên Website của Bộ Giáo dục và Đào tạo www.moet.gov.vn.
Ứng với qui định của Luật Giáo dục Đại học năm 2013 về trình độ chuẩn chức danh giảng viên đại học là thạc sĩ trở lên, có thể thấy tỷ lệ giảng viên đạt tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ở nước ta là 61,2%. Nhiều trí thức GDĐH đã vươn lên tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin, bồi dưỡng thêm ngoại ngữ nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy, NCKH. Đó là một trong những dấu hiệu không chỉ phản ánh mức độ đáp ứng của một bộ phận trí thức GDĐH về trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn được xem là tiền đề thúc đẩy cải biến chất lượng lao động của đội ngũ nhà giáo đại học theo hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của thực tiễn đất nước cũng như những đòi hỏi từ bối cảnh của thời đại.
Tuy nhiên, trong các trường đại học ở nước ta, số nhà giáo có trình độ chuyên môn không qua đào tạo ở bậc sau đại học chiếm tỷ lệ không nhỏ là 38,8%. Điều này góp phần lý giải tại sao tỷ lệ tiến sĩ/giảng viên đại học nước ta tại thời điểm năm học 2012 - 2013 mới chỉ đạt 14,3% trong khi ở các trường đại học trung bình của phương Tây là khoảng 70%. Sự chênh lệch khá lớn này sẽ tiếp tục kéo dài, chậm được khắc phục nếu như công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ trí thức GDĐH nước ta không có những cách tân, đổi mới.
Hơn nữa, sự phân bố giảng viên có trình độ cao lại không đồng đều ở các trường, các khu vực và giữa các khối ngành đào tạo. Phần lớn trí thức nhà giáo có học hàm, học vị cao đều tập trung ở những thành phố với các đại học qui mô lớn. Tình trạng thiếu nghiêm trọng lực lượng trí thức GDĐH trình độ cao chủ yếu thuộc vùng miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên, Đồng bằng Nam bộ, ở các trường mới hoặc các trường ngoài công lập. Đặc biệt, ở các ngành văn hóa nghệ thuật thì tỷ lệ cán bộ giảng dạy có học vị tiến sĩ rất thấp.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu hụt cán bộ giảng dạy đầu ngành nhưng nguyên nhân chủ yếu là do công tác qui hoạch đội ngũ trí thức GDĐH chưa tốt, còn thiếu tính chiến lược lâu dài. Hơn nữa, có một thời gian tương đối dài, đời sống của giảng viên rất khó khăn, tuy đến nay đã được cải thiện đáng kể nhưng chế độ đãi ngộ đối với trí thức nhà giáo đại học ở thời
điểm hiện tại còn kém hấp dẫn, việc đào tạo nâng cao trình độ chưa trở thành nhu cầu nội tại, thiết yếu của mỗi cán bộ giảng dạy.
3.1.2. Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
Một là, hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo.
Giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo với số tiết qui chuẩn ở từng chức danh là nhiệm vụ quan trọng của trí thức nhà giáo. Sớm nhận thức được trọng trách này, tuyệt đại bộ phận giảng viên đều cố gắng, nỗ lực hoàn thành tốt số giờ chuẩn giảng dạy theo từng chức danh mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã qui định (Phụ lục 2). Theo số liệu điều tra xã hội học, có 64,1% giảng viên tích cực tham gia vào hoạt động giảng dạy. Ở những mức độ khác nhau, trí thức GDĐH đã tham gia giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên, giúp sinh viên phát huy vai trò chủ động trong học tập và rèn luyện; hướng dẫn sinh viên thực hiện mục tiêu đào tạo đồng thời thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của cơ sở GDĐH. Nhiều trí thức GDĐH còn tham gia xây dựng và phát triển ngành học, chương trình đào tạo, cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy, nghiên cứu và thực hành môn học.
Dù đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta trong nhiều năm qua đã có những nỗ lực, cố gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ giảng dạy theo mục tiêu, chương trình đào tạo nhưng mức độ hoàn thành, nhất là việc thực hiện chương trình đào tạo vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Nhiệm vụ biên soạn giáo trình, sách chuyên khảo và tài liệu tham khảo phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng của đội ngũ trí thức GDĐH chưa được hoàn thành ở mức độ cao. Hiện nay, số giảng viên tham gia giảng dạy nhưng chưa biên soạn được giáo trình, tài liệu tham khảo cho môn học còn khá phổ biến. Một số môn học thiếu giáo trình chuẩn, tình trạng dạy chay, học chay chưa được khắc phục ở nhiều cơ sở đào tạo. Nguyên nhân của những yếu kém này trước hết phải được nhìn nhận từ hạn chế trong năng lực sáng tạo của đội ngũ các nhà giáo.
Hai là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ.
Những năm gần đây, công tác NCKH bước đầu được các trường đại học quan tâm. Ứng với tiêu chuẩn về nhiệm vụ NCKH của nhà giáo giảng dạy ở bậc đại học (Phụ lục 2), phần lớn giảng viên đã hoàn thành số tiết qui chuẩn NCKH theo luật định nhưng trong đó, chiếm tỷ lệ khá cao là những trí thức GDĐH chỉ hướng dẫn sinh viên nghiên cứu hoặc tham gia các hội thảo khoa học ở cấp trường, khoa, bộ môn mà ít có những công trình nghiên cứu độc lập ở phạm vi chuyên sâu được thẩm định, đánh giá bởi hội đồng khoa học. Trên thực tế, có những tấm gương giảng viên đại học hoàn thành tốt nhiệm vụ NCKH thông qua việc tham gia chủ trì hay tổ chức, chỉ đạo, thực hiện các chương trình, dự án, đề tài NCKH, chuyển giao kỹ thuật, phát triển công nghệ phục vụ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa - giáo dục của đất nước. Bên cạnh đó vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ trí thức GDĐH chưa đáp ứng được yêu cầu công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước. Theo kết quả thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại thời điểm năm 2005 ở các trường đại học công lập của Việt Nam chỉ có 17.088 bài báo khoa học được công bố (Phụ lục 8). So với tổng số giảng viên khi đó là 33.969 thì trên thực tế chỉ có 50,3% giảng viên có bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí. Điều này chứng tỏ, mức độ thâm nhập thực tiễn, phổ biến kiến thức khoa học phục vụ đời sống còn yếu, năng lực sáng tạo của một bộ lớn trí thức GDĐH còn hạn chế. Hơn nữa, công tác NCKH, chuyển giao công nghệ đặc biệt là hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực này chưa đồng đều, chỉ mới tập trung ở những trường đại học lớn với số ít cán bộ giảng dạy đầu ngành, có học hàm, học vị.
Ba là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Những năm qua, đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta đã có nhiều cố gắng nỗ lực trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy, biểu hiện ở số lượng thạc sĩ, tiến sĩ
không ngừng gia tăng hàng năm. Sự gia tăng tỷ lệ trí thức nhà giáo có trình độ trên đại học là thông số quan trọng khẳng định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Sau 12 năm, tỷ lệ giảng viên có trình độ trên đại học đã tăng 13,56% (từ 47,69% năm 2001 lên 61,26% năm 2013). Điều đó chứng tỏ mức độ đáp ứng yêu cầu tự học nhằm cập nhật thường xuyên kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy, nâng cao hiểu biết của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta đang ngày càng được nâng cao, phản ánh nhu cầu học suốt đời để phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân - giá trị nghề nghiệp cao quí mà phần lớn trí thức nhà giáo đại học ở nước ta đã thực hiện thông qua lao động của mình.
Tuy nhiên, hạn chế lớn có tính phổ biến trong các nhà giáo đại học là chỉ coi trọng đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn. Không ít giảng viên chưa thực sự nhận thấy vai trò quan trọng cũng như trách nhiệm của bản thân đối với việc bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, năng lực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng ngoại ngữ trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ, trong sự gia tăng quan hệ hợp tác và cạnh tranh toàn cầu. Hơn nữa, trong nhiều năm qua, quan niệm học lấy bằng cấp, chứng chỉ vẫn đang chi phối đến quá trình tu nghiệp, rèn luyện của một bộ phận không nhỏ trí thức nhà giáo ở nước ta. Điều này tác động tiêu cực và trở thành nguyên nhân chính dẫn đến những biểu hiện hình thức trong công tác bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của không ít trí thức GDĐH. Có thể xem đây là sự lãng phí rất lớn mà các nhà lãnh đạo, quản lý cũng như mỗi trí thức nhà giáo cần nghiêm túc khắc phục trước yêu cầu thực hiện bước chuyển căn bản từ giáo dục đến tự giáo dục, đáp ứng đòi hỏi sự gia tăng không ngừng hàm lượng chất xám, trí tuệ của kinh tế tri thức.
Bốn là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ trí thức GDĐH tham gia quản lý hoạt động đào tạo.
Hàng năm, đội ngũ trí thức GDĐH đã hoàn thành tốt nhiệm vụ tham gia công tác tuyển sinh của cơ sở GDĐH cũng như đánh giá kết quả học tập, NCKH, quá trình tu dưỡng rèn luyện đạo đức, phẩm chất chính trị, tư tưởng