Khái Niệm Pháp Luật Về Quản Lý Nội Bộ Công Ty Trách Nhiệm Hữu


mình cho người khác, trừ những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định. Hay ở công ty đối nhân, vì đặc tính của loại hình công ty này là chú trọng nhiều đến nhân thân của thành viên nên phần vốn góp của các thành viên không thể chuyển nhượng được cho người khác dưới bất kỳ hình thức nào (trừ trường hợp phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp vốn đơn giản). Còn ở công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn điều lệ được chia thành nhiều phần có thể khác nhau, mỗi thành viên có thể góp nhiều hoặc góp ít, phần vốn góp của mỗi thành viên có thể chuyển nhượng cho người khác nhưng phải theo quy định của pháp luật. Điều này có lẽ xuất phát từ ý tưởng của các nhà làm luật khi xây dựng mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn là tận dụng đặc điểm số lượng thành viên ít, các thành viên thường quen biết, tin cậy nhau của công ty đối nhân, cho nên rất hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty. Pháp luật của mỗi nước có quy định riêng về điều kiện chuyển nhượng phần vốn góp. Nhưng nhìn chung, các điều kiện đặt ra đều tạo cho các thành viên có cơ hội xem xét, cân nhắc về việc có đồng ý cho người ngoài tham gia vào công ty hay không, kiểm soát được sự thay đổi thành viên trong công ty. Ở Việt Nam trước đây, theo Luật công ty 1990, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người ngoài khi được sự đồng ý của nhóm thành viên đủ đại diện cho ít nhất ba phần tư vốn điều lệ của công ty [2]. Tuy nhiên, quy định như vậy dường như chỉ có lợi cho thành viên góp nhiều vốn. Bởi vì, các thành viên góp ít vốn sẽ không có khả năng chuyển nhượng vốn ra bên ngoài nếu không được các thành viên góp nhiều vốn đồng ý. Khắc phục điều bất cập này, Luật doanh nghiệp hiện hành đã quy định thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp phải chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện, và chỉ trong trường hợp các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc mua không hết thì mới được chuyển nhượng cho người không


phải là thành viên công ty [1, Đ.32]. Quy định này vừa bảo vệ được quyền lợi của các thành viên góp ít vốn, vừa hạn chế được sự xâm nhập của người ngoài vào công ty, song cũng tạo sự linh hoạt trong cơ cấu vốn của công ty so với loại hình công ty đối nhân.

Thứ tư là, thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn bị giới hạn về số lượng. Đây lại là một điểm khác biệt nữa giữa công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, bởi vì công ty cổ phần không bị hạn chế về số lượng thành viên. Về cơ bản, các cá nhân, tổ chức thỏa mãn những điều kiện do pháp luật quy định có thể góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, trở thành thành viên của công ty. Song, xuất phát từ ý tưởng của các nhà lập pháp là muốn xây dựng một mô hình công ty với số lượng thành viên ít, cơ chế quản lý gọn nhẹ, thích hợp với quy mô đầu tư vừa và nhỏ, nên luật pháp các nước thường khống chế số lượng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn. Ví dụ: số thành viên tối đa của công ty trách nhiệm hữu hạn ở Thái Lan là không quá 99 thành viên; ở Liên bang Nga, Nhật Bản, Singapore và Malaysia là không quá 50 thành viên; ở Cộng hòa Nam Phi là không quá 30 thành viên và ở Philippine là không quá 20 thành viên [18, tr.121; 30, tr.6]. Ở Việt Nam trước đây, Luật công ty không quy định về số lượng thành viên tối đa của công ty trách nhiệm hữu hạn. Song, điểm mới của Luật doanh nghiệp so với Luật công ty là có quy định cụ thể về số lượng thành viên tối thiểu của công ty trách nhiệm hữu hạn là 1 thành viên (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, nhưng với điều kiện thành viên này phải là tổ chức có tư cách pháp nhân), số lượng thành viên tối đa là không vượt quá 50 thành viên. Tất cả các công ty có số lượng thành viên vượt quá mức tối đa mà pháp luật quy định đều phải chuyển sang hình thức công ty cổ phần. Thực tế thành lập và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn ở Việt Nam cho thấy số lượng thành viên của loại hình công ty này hiện nay thường rất ít, hiếm khi vượt quá con số 10 người [18, tr.121].


Thứ năm là, trong suốt quá trình hoạt động, công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn trong công chúng. Nếu quyền được phát hành cổ phiếu ra công chúng là một đặc trưng pháp lý của công ty cổ phần, thì công ty trách nhiệm hữu hạn lại không có đặc trưng này. Trong công ty cổ phần, vốn điều lệ của công ty được chia thành những phần bằng nhau và được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu nên rất dễ chuyển nhượng; bất kỳ ai nắm giữ cổ phần của công ty đều trở thành thành viên của công ty; khi cần tăng vốn điều lệ, công ty có quyền phát hành cổ phiếu để công khai huy động vốn trong công chúng. Do đó, số lượng thành viên của công ty cổ phần có thể tăng lên liên tục đến mức không thể kiểm soát nổi trong quá trình công ty hoạt động. Còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, như đã phân tích ở trên, cơ cấu vốn của công ty là cơ cấu vốn đóng, phần vốn góp của các thành viên khó chuyển nhượng hơn so với ở công ty cổ phần, số lượng thành viên của công ty thường ít và bị khống chế số lượng tối đa. Bởi vậy, công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để công khai huy động vốn trong công chúng. Điều này giúp cho công ty trách nhiệm hữu hạn hoàn toàn kiểm soát được số thành viên của mình.

Thứ sáu, công ty trách nhiệm hữu hạn được quản lý, điều hành một cách tập trung và thống nhất. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, công ty trách nhiệm hữu hạn có một đời sống pháp lý riêng của mình. Chính vì vậy, trong suốt quá trình tồn tại, công ty trách nhiệm hữu hạn được quản lý, điều hành bởi chính những thiết chế quản lý, điều hành của công ty do các chủ sở hữu lập ra như Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị. Chủ sở hữu sẽ thông qua các thiết chế đó để quyết định các vấn đề quan trọng nhất thuộc về thẩm quyền của chủ sở hữu như: quyết định chiến lược đầu tư, kế hoạch kinh doanh, quyết định vấn đề nhân sự của công ty… Đó chính là quản lý, điều hành tập trung, thống nhất [11]. Các cơ quan Nhà nước hay các tổ chức, cá nhân bên ngoài không có


quyền can thiệp vào hoạt động quản lý, điều hành và việc quyết định các vấn đề của công ty. Đây là điểm khác biệt giữa công ty trách nhiệm hữu hạn với loại hình công ty nhà nước hiện đang tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Chính những đặc trưng trên đã chi phối cơ chế tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn. Quy chế tổ chức quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn đơn giản hơn rất nhiều so với công ty cổ phần, và cũng khác biệt hẳn so với các công ty đối nhân. Do đặc trưng của công ty cổ phần là cổ phần có thể tự do chuyển nhượng, với quyền được phát hành chứng khoán ra công chúng nên số lượng thành viên của công ty cổ phần thường rất lớn, rất dễ tạo ra sự phân chia quyền lợi trong nhóm cổ đông và quyền lực trong công ty rất khó kiểm soát. Vì vậy, việc tổ chức quản lý công ty cổ phần phải theo một quy chế pháp lý rất khắt khe. Còn trong công ty đối nhân, thành viên là những người quen biết, tin cậy nhau, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp. Do đó, pháp luật các nước thường rất ít khi quy định về tổ chức, quản lý công ty đối nhân, mà thường trao quyền cho các thành viên công ty đối nhân tự thỏa thuận, định đoạt các vấn đề về tổ chức, quản lý công ty và ghi vào trong Điều lệ. Còn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, vấn đề tổ chức quản lý công ty được quy định cụ thể trong luật, song ở mức độ đơn giản hơn so với công ty cổ phần. Ở Việt Nam, theo quy định của Luật doanh nghiệp, công ty trách nhiệm hữu hạn được quản lý, điều hành bởi một bộ máy gồm Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên và Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với những công ty trách nhiệm hữu hạn có số lượng thành viên lớn (trên 11 thành viên) thì phải có Ban kiểm soát [1, Đ.34]. Tuy nhiên, suy cho cùng, việc phân chia quyền lực và thực thi quyền lực giữa các bộ phận quản lý, điều hành trong công ty trách nhiệm hữu hạn vẫn bị chi phối bởi yếu tố “phần vốn góp”. Vấn đề này sẽ được trình bày rõ ở những phần sau.


Chế độ pháp lý về quản lý nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật doanh nghiệp - 3


hạn‌

1.2. Khái niệm pháp luật về quản lý nội bộ công ty trách nhiệm hữu


1.2.1. Quản lý nội bộ công ty trách nhiệm hữu hạn và vai trò của

pháp luật về quản lý nội bộ công ty trách nhiệm hữu hạn

Trong lĩnh vực kinh tế, theo cách tư duy truyền thống thể hiện rất rõ trong trong các văn bản pháp luật về doanh nghiệp ở nhà nước ta, quản lý được chia thành hai dạng là quản lý nhà nước về kinh tế quản lý nội bộ doanh nghiệp.

Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, Nhà nước vừa là người quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng các công cụ vĩ mô, vừa là người trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế bằng chỉ tiêu pháp lệnh. Khi đó, hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý nội bộ doanh nghiệp không được phân định rõ ràng. Ngày nay, Nhà nước đã trở về đúng vị trí của mình là người quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, quyền tổ chức quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh được trao trả lại cho doanh nghiệp, doanh nghiệp được tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước, thì vấn đề quản lý nội bộ doanh nghiệp như thế nào để có hiệu quả nhất được đặt ra. Bởi vì, thực tế đã khẳng định rằng sự thành công, phát triển và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp tỷ lệ thuận với năng lực của người quản lý và phương thức quản lý trong nội bộ doanh nghiệp.

Trên phương diện pháp lý, có rất nhiều cách hiểu về quản lý nội bộ doanh nghiệp. Có quan điểm cho rằng, quản lý nội bộ doanh nghiệp là cơ chế quản lý, giám sát của người chủ sở hữu đối với người quản lý, điều hành công ty theo những mục tiêu, định hướng của chủ sở hữu [33]. Hay quản lý nội bộ doanh nghiệp bao gồm các cơ quan và quy trình thể hiện ý chí của doanh


nghiệp - như là một pháp nhân trong quan hệ với các bên thứ ba [26]. Hay quản lý nội bộ doanh nghiệp là tập hợp các mối quan hệ giữa chủ sở hữu với người quản lý, điều hành và các bên có liên quan nhằm thực hiện mục tiêu và giám sát việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp [33]. Như vậy, có thể hiểu quản lý nội bộ doanh nghiệp là hệ thống các cơ chế xác định mối quan hệ và trách nhiệm tương ứng giữa chủ sở hữu với người quản lý, điều hành doanh nghiệp, nhằm xác định mục tiêu, thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó. Quản lý nội bộ doanh nghiệp bao giờ cũng hướng tới hai mục tiêu chính: bảo vệ quyền lợi của người góp vốn (chủ sở hữu) và tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp.

Về nguyên tắc, quản lý nội bộ doanh nghiệp là công việc nội bộ của nhà đầu tư (chủ sở hữu) doanh nghiệp. Chủ sở hữu doanh nghiệp là người đầu tư vốn thành lập doanh nghiệp tất nhiên sẽ có quyền tự do đàm phán, lựa chọn và thiết lập một cơ cấu và phương thức tổ chức quản lý thích hợp cho doanh nghiệp mà mình thành lập. Chủ sở hữu có quyền quyết định là tự mình quản lý, điều hành doanh nghiệp, hay thuê người khác điều hành doanh nghiệp còn mình thì giám sát việc điều hành. Tuy nhiên, ở bất kỳ quốc gia nào, ở mức độ ít nhiều khác nhau, Nhà nước vẫn có những quy định để can thiệp nhất định đến hoạt động quản lý nội bộ doanh nghiệp bởi các lý do sau: Thứ nhất, về nguyên tắc thì quản lý nội bộ doanh nghiệp là công việc của chủ sở hữu doanh nghiệp, song trong thực tế có không ít trường hợp người chủ sở hữu doanh nghiệp không biết cách quản lý doanh nghiệp như thế nào để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Thứ hai, trong thực tế có không ít trường hợp người chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý, điều hành doanh nghiệp lại lợi dụng địa vị và khả năng của mình để quản lý doanh nghiệp theo hướng trục lợi cho bản thân và gia đình mình, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, của các nhà đầu tư khác trong doanh nghiệp cũng như quyền lợi của những người tham gia


giao dịch với doanh nghiệp (như chủ nợ, bạn hàng, người lao động...). Trong những trường hợp này, sự can thiệp của Nhà nước đến hoạt động quản lý nội bộ của doanh nghiệp là rất cần thiết để ngăn ngừa những tiêu cực trên.

Tuy nhiên, khi mà việc tổ chức quản lý và điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đã được Nhà nước trao trả lại cho doanh nghiệp, thì cách can thiệp của Nhà nước vào hoạt động quản lý nội bộ của doanh nghiệp cũng phải thay đổi. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động quản lý của doanh nghiệp nữa mà chỉ dừng lại ở việc đặt ra các quy định mang tính chất “định khung” cho hoạt động quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Các quy định này hình thành nên pháp luật về quản lý nội bộ doanh nghiệp. Khung pháp luật về quản lý nội bộ doanh nghiệp mà Nhà nước đặt ra bao gồm phần lớn các quy phạm tuỳ nghi, nhằm hướng dẫn, định hướng cho doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền tự do lựa chọn có thực hiện hoặc không. Song, bên cạnh đó, khung pháp luật này còn có những quy phạm mang tính bắt buộc. Đó là những ràng buộc tối thiểu của pháp luật về quản lý nội bộ doanh nghiệp mà chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp phải thực hiện. Những quy phạm bắt buộc được Nhà nước đặt ra nhằm ngăn ngừa các hành vi trục lợi của chủ sở hữu và người quản lý doanh nghiệp, bảo vệ lợi ích hợp pháp của chính doanh nghiệp, của các nhà đầu tư khác trong doanh nghiệp và những người có tham gia giao dịch với doanh nghiệp. Vậy, có thể hiểu pháp luật về quản lý nội bộ doanh nghiệp là tổng hợp các quy định của pháp luật nhằm tạo một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý nội bộ doanh nghiệp, bao gồm: các quy định về cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ doanh nghiệp, các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của chủ sở hữu, người quản lý, điều hành và giám sát hoạt động của người quản lý, điều hành, đảm bảo hoạt động quản lý nội bộ của doanh nghiệp diễn ra trong một trật tự nhất định, không xâm hại đến lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, nhà đầu tư và xã hội.


Ở Việt Nam, đối với mỗi loại hình doanh nghiệp, pháp luật quy định một cơ chế quản lý nội bộ khác nhau, phù hợp với đặc trưng riêng của từng loại hình doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn, với những đặc trưng cơ bản của nó là được thành lập trên cơ sở sự quen biết, tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên, số lượng thành viên thường ít, nên Luật doanh nghiệp đã quy định một cơ chế quản lý nội bộ đơn giản, gọn nhẹ hơn so với nhiều loại hình doanh nghiệp khác (như doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), và dành cho các thành viên cơ hội được tự thỏa thuận, lựa chọn phương án quản lý nội bộ nhiều hơn. Nội dung của pháp luật về quản lý nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn thường đề cập đến những vấn đề như:

- Quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty đối với công ty;

- Tổ chức bộ máy quản lý nội bộ và sự phân chia quyền lực giữa các cơ quan quản lý, điều hành trong công ty;

- Nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý công ty;

- Kiểm soát các giao dịch tư lợi trong công ty…

Những quy định về các vấn đề này nhằm đảm bảo cho hoạt động quản lý nội bộ công ty trách nhiệm hữu hạn diễn ra trong một khuôn khổ nhất định, bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của các thành viên công ty và bản thân công ty, ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực trong việc quản lý, điều hành công ty gây hại cho các thành viên, công ty và xã hội, đảm bảo tính lành mạnh, ổn định của môi trường kinh doanh.

Khi xây dựng Luật doanh nghiệp 1999, với một tư duy điều chỉnh mới là Nhà nước không can thiệp sâu mà chỉ tạo một khung pháp luật cho hoạt động của doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp đã được thiết kế theo mô hình luật tự điều chỉnh với rất nhiều quy phạm tùy nghi mang tính hướng dẫn. Những người tham gia doanh nghiệp có thể thỏa thuận, lựa chọn phương án quản lý nội bộ phù hợp và ghi vào Điều lệ công ty. Song, vấn đề quan trọng là các nhà lập

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 26/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí