Nâng Cao Chất Lượng Lao Động Của Đội Ngũ Trí Thức Giáo Dục Đại Học Là Yêu Cầu Nội Tại Của Quá Trình Đổi Mới Căn Bản, Toàn Diện Giáo Đục


nguồn nhân lực đủ sức đứng vững và khẳng định mình trong kỷ nguyên trí tuệ

- kỷ nguyên của loại hình lao động được đào tạo chính qui với trình độ cao, chuyên nghiệp, tích cực, chủ động và sáng tạo. Công cuộc kiến thiết nguồn lực trình độ cao cho quốc gia theo tiêu chí ấy đã tất yếu qui định rằng, nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH phải được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển ở nước ta hiện nay.

Hai là, GDĐH Việt Nam đang ở một thời điểm đòi hỏi phải thay đổi căn bản, toàn diện và mạnh mẽ trước yêu cầu phát triển nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Giờ đây, lực lượng lao động có học vấn, học thức cao, tinh thông chuyên môn nghiệp vụ, được đào tạo cơ bản, hệ thống và hiện đại là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố then chốt đảm bảo nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại, bền vững. Sức ép nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế tất yếu đặt ra yêu cầu về một cuộc cách mạng trong chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, ở đó đào tạo đại học thiên về ứng dụng, đào tạo con người năng lực thay cho con người khoa bảng cần phải trở thành hiện thực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với tư cách nhân lực khoa học trụ cột phải được ưu tiên, chú trọng. Tổng thể những đòi hỏi ấy cho thấy, nước ta đang đứng trước thử thách lịch sử đầy khó khăn - thực hiện CNH, HĐH rút ngắn, đi tắt đón đầu những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất nhưng “điểm nghẽn” về sự thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao đang là một thực tế. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết bằng sự cách tân trong chất lượng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo ở bậc đại học. Điều đó vừa có ý nghĩa nội tại được thôi thúc bởi lương tâm, bởi trách nhiệm của bản thân nhà giáo với tư cách là chủ thể lao động trong kinh tế tri thức, vừa xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Ba là, việc gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) vào năm 2006 đã đòi hỏi chúng ta phải thừa nhận GDĐH là một loại dịch vụ. Theo đó, nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH đã trở thành yêu cầu cấp thiết không chỉ để đáp ứng mong muốn, nguyện vọng của chính giảng viên - người


trực tiếp thực hiện dịch vụ giáo dục mà quan trọng hơn là đáp ứng yêu cầu của khách hàng (người học, nhà đầu tư, chủ thể sử dụng sản phẩm của GDĐH). Giờ đây, mô hình phát triển bền vững của GDĐH dựa vào chất lượng đã trở thành nhu cầu thiết yếu của Việt Nam khi gia nhập vào thị trường thế giới. Chú trọng đến việc nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH là một trong những phương thức tiếp cận trực tiếp nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh của cơ sở GDĐH trên thị trường quốc tế cũng như ở thị trường nội địa.

Bốn là, xét về thực chất thì nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH là nâng cao hàm lượng trí tuệ kết tinh trong nguồn nhân lực được đào tạo. Đây là phương pháp quản lý tiên tiến cần thiết được coi trọng trước những đòi hỏi khắt khe của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về việc tạo lập lợi ích bền vững từ chất lượng của nguồn nhân lực. Đổi mới GDĐH trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các chủ thể quản lý phải chú trọng đến chất lượng lao động của trí thức nhà giáo giống như họ quan tâm đến lợi nhuận. Đầu tư cho GDĐH là đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển. Điều đó tự nó đã khẳng định GDĐH là một ngành kinh tế đặc biệt, chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH là lĩnh vực cần phải ưu tiên trong chiến lược đầu tư của nhà nước. Đó là chính sách đầu tư trực tiếp cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cho tăng trưởng, tiến bộ và phát triển kinh tế. Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH càng cao bao nhiêu thì chất lượng nguồn lực trí tuệ càng có điều kiện được đảm bảo và phát triển bấy nhiêu. Sở dĩ, cần thiết phải nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cũng là vì lẽ đó.

Năm là, Việt Nam đang trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu giải phóng, phát triển con người và đạt tới kiểu tổ chức lao động sao cho tạo ra năng suất lao động cao. Mục tiêu ấy không chấp nhận hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay: lao động không được đào tạo đến nơi đến chốn; thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng chuyên gia; phương pháp đào tạo nguồn nhân lực bất cập; tình trạng học giả bằng thật, lao động hình thức, tắc trách, kém hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong bối


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn cầu. Hệ quả tất yếu là năng suất lao động thấp tạo ra thách thức rất lớn đối với khả năng thuyết phục của chủ nghĩa xã hội về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Nội lực để chứng thực tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên hết phải là nhân tố con người, là kỹ năng, thái độ và trách nhiệm lao động, là hiệu quả công việc thực tế của mỗi công dân. Điều ấy chỉ có thể được đảm bảo bởi chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH.

2.4.2. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học là yêu cầu nội tại của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo đục dại học ở Việt Nam hiện nay

Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 9

Có thể nói, ở bất cứ cơ sở đào tạo đại học nào, chất lượng giáo dục yếu kém cũng là mối đe dọa thường xuyên đến sự tồn tại, phát triển bền vững của nhà trường. Cần nhận thức sâu sắc một thực tế, GDĐH Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi vô cùng hệ trọng - cuộc cách mạng về chất lượng đào tạo. Nghị quyết 29 - Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã chỉ rõ mục tiêu tổng quát của chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam là tạo ra sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp. Đối với GDĐH, Nghị quyết xác định phải tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, trong đó có trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Mục tiêu ấy đặt ra yêu cầu rất cao ở chất lượng lao động của trí thức GDĐH, trọng tâm là nhiệm vụ giảng dạy, NCKH và tổ chức, quản lý để tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đây là điều kiện tiên quyết đưa GDĐH Việt Nam vượt qua khó khăn, thách thức để có thể tồn tại và phát triển bền vững trong bối cảnh quốc tế hóa giáo dục đang diễn ra mạnh mẽ như một xu hướng tất yếu hiện nay.

Ngay từ khi đặt vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, nhận thấy những đòi hỏi khắt khe của thị trường lao động đối với nguồn nhân lực, Đảng ta đã xác định: “Đổi mới giáo dục và đào tạo phải theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã


hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [51, tr.77]. Hiện thực hóa quan điểm ấy, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các bộ, ngành triển khai cuộc vận động “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn và không đáp ứng nhu cầu xã hội”, qua đó thúc đẩy và khuyến khích các trường gắn kết với nhà tuyển dụng, chú trọng đào tạo nhân lực cho các ngành trọng điểm, vùng kinh tế của đất nước. Để triển khai thành công chiến lược đó thì nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH đã trở thành nhu cầu thiết yếu.

Chất lượng lao động đã trở thành vấn đề sinh tử của trí thức GDĐH trong thời đại cạnh tranh khốc liệt, khi giảng viên không còn có thể bị động trông chờ vào kế hoạch, chỉ tiêu. Đào tạo theo phương thức tín chỉ cùng với yêu cầu triển khai qui trình kiểm định chất lượng trường đại học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo đang trở thành động lực hối thúc mạnh mẽ việc nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH. Với chủ trương nêu cao quyền lựa chọn người dạy của sinh viên, với việc đảm bảo “người học được quyền tham gia đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên khi kết thúc môn học, được tham gia đánh giá chất lượng đào tạo của trường đại học trước khi tốt nghiệp’’[23] đã đặt trí thức nhà giáo ở bậc đại học đứng trước nguy cơ, thách thức bị đào thải nếu chất lượng lao động của họ không đáp đứng được nhu cầu của người học hay của các chủ thể sử dụng nguồn nhân lực.

Sứ mạng mới của trường đại học theo định hướng đổi mới cản bản, toàn diện giáo dục đào tạo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH. Quan điểm “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất người học; chuyển phát triển giáo dục đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả” [52] đã xác định trường đại học cần vượt ra khỏi vai trò đào tạo kỹ năng, truyền đạt chuyên môn thuần tuý và đóng góp vào việc phát triển ở người học năng lực sáng tạo, những kỹ năng xã hội, phẩm chất đạo đức và tư duy phê phán. Lao


động của trí thức GDĐH vì thế cũng tất yếu phải có những thay đổi căn bản theo hướng nâng cao chất lượng để hiện thực hóa sứ mạng đó.

Xét từ góc độ khác, xu hướng tăng quyền tự chủ và yêu cầu về việc nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của trường đại học cũng khách quan hoá vấn đề nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH. Trên tinh thần đổi mới của Luật GDĐH được áp dụng từ 1/1/2013, công tác quản lý, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình xã hội của cơ sở đào tạo sẽ được tăng cường đi đôi với giám sát chặt chẽ. Điều này, dẫn đến một yêu cầu cấp bách hiện nay là bản thân trí thức GDĐH phải là một trong những chủ thể có đủ trình độ, năng lực không chỉ tự chịu trách nhiệm trong việc xây dựng chương trình đào tạo, mà quan trọng hơn họ phải hiện thực hóa chương trình thông qua chức trách giảng dạy và NCKH. Để rồi, không ai khác, chính đội ngũ trí thức GDĐH phải tự chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân về chất lượng lao động của mình.

Rõ ràng, nhu cầu nội tại của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH ở Việt Nam trong nền kinh tế đang biến chuyển và trong xu hướng quốc tế hóa GDĐH, quốc tế hóa thị trường lao động đã buộc chúng ta phải chú trọng nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH như một yêu cầu khách quan.

2.4.3. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học nhằm khai thác tốt mọi tiềm năng, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực của giáo dục đại học

Hiệu quả giáo dục - đào tạo đại học bị chi phối bởi việc khai thác tiềm năng, sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực của từng trường. Nếu chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH được nâng lên thì hiệu quả đào tạo của nhà trường cũng được đảm bảo. Sự liên hệ đó khăng khít, chặt chẽ tới mức, sẽ không thể có một nền GDĐH tiến bộ, hiện đại nếu chất lượng lao động của các chủ thể giáo dục còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục và đổi mới. Ở mối quan hệ này, chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH tự nó cũng đã trở thành “vật” đảm bảo, là điều kiện, tiền đề để


khai thác tốt mọi tiềm năng, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nhất các

nguồn lực của GDĐH.

Thực chất nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH là nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp để mỗi trí thức nhà giáo có thể đem tài năng, sáng tạo, nhiệt huyết, trách nhiệm của mình vào việc xây dựng các luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các chính sách phát triển, đổi mới GDĐH. Mặt khác, nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cũng là phát huy năng lực giảng dạy, NCKH cũng như năng lực tổ chức, quản lý giáo dục của mỗi trí thức nhà giáo.

Trí thức GDĐH là chủ thể quan trọng nhất, nòng cốt nhất có ý nghĩa quyết định chất lượng giảng dạy, NCKH và là chủ thể trực tiếp của mọi yếu tố, mọi khâu trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực nên chất lượng đào tạo đại học và hiệu quả đổi mới GDĐH hiển nhiên phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ nhà giáo. Nếu không thực hiện nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH thì đồng nghĩa với việc nuôi dưỡng tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, thiếu tích cực của đội ngũ nhà giáo. Điều này không những mâu thuẫn mà còn tác động tiêu cực đến lý tưởng nghề nghiệp của mỗi người thầy trong giai đoạn hiện nay.

Thích ứng với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, từ cách quản lý bằng kế hoạch, mệnh lệnh hành chính sang giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDĐH, những yếu tố qui định sự phát triển bền vững của GDĐH cũng có những biến đổi nhất định. Thay vì phụ thuộc nhiều vào các nguồn lực truyền thống như cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn chi ngân sách nhà nước đã từng là yếu tố đảm bảo sự tồn tại ổn định của GDĐH thì trong xu thế toàn cầu hiện nay, yếu tố quyết định sự phát triển bền vững lại là vấn đề chất lượng, mà trước hết là chất lượng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo. Điều này cũng có nghĩa là sẽ không thể khai thác thác tốt mọi tiềm năng, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực của GDĐH nếu chất lượng lao động của trí thức nhà giáo còn nhiều yếu kém chậm được khắc phục.


Cơ sở vật chất kỹ thuật cũng là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo chất lượng lao động của trí thức GDĐH. Giáo trình, tài liệu phục vụ môn học, hệ thống trường lớp khang trang, phương tiện phục vụ giảng dạy và học tập tiện nghi là điều kiện tốt để đảm bảo chất lượng lao động của trí thức GDĐH ở mức độ nhất định. Thực tế đã chứng minh, một cơ sở đào tạo đại học không thể có chất lượng đích thực nếu thiếu thốn hay lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật. Nhưng vấn đề đặt ra như một thách thức rất lớn đòi hỏi mỗi cơ sở GDĐH phải có phương pháp sử dụng, khai thác chúng một cách hiệu quả, nếu không sẽ khó tránh khỏi sự lãng phí nguồn nhân lực, vật lực. Điều này quả thực phụ thuộc rất lớn vào chất lượng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo, từ các chủ thể lãnh đạo, quản lý đến từng giảng viên trực tiếp đứng lớp hay đội ngũ nhân viên trong các phòng, ban của cơ sở GDĐH.

Để thúc đẩy chất lượng lao động của trí thức GDĐH cũng có thể kiếm tìm động lực từ công tác quản lý giáo dục. Quản lý là một nghệ thuật bởi vì các qui định, qui chế tác động trực tiếp đến con người và có thể động viên, khuyến khích nhà giáo hoặc có thể tạo ra những lực cản hạn chế sự say mê cống hiến, sáng tạo của cả thầy và trò. Công tác quản lý được thể hiện trên nhiều lĩnh vực nhưng tập trung nhất là ở các khâu: tuyển sinh, chương trình đào tạo, kiểm tra đánh giá chất lượng học tập giữa kỳ và cuối khóa học. Xét đến cùng, trí thức GDĐH vừa là đối tượng quản lý vừa là chủ thể quản lý. Vì vậy, không thể tìm được động lực cơ bản thúc đẩy chất lượng đào tạo đại học nếu không đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng lao động của chính chủ thể trí thức nhà giáo - với tư cách là động lực trực tiếp, nội tại.

Từ mối tương quan với các yếu tố khác trong nhà trường như mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp dạy - học, cũng có thể khẳng định, nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Việc hiện thực hóa các yếu tố nêu trên chỉ được đảm bảo bởi hiệu quả lao động với tính tích cực, tự giác, trách nhiệm của mỗi trí thức nhà giáo.

Tựu trung lại, cả về mặt lôgic lẫn thực tiễn đều chỉ ra rằng, nếu không

nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH thì việc đầu tư cơ sở vật


chất kỹ thuật, việc hiện đại hóa các phương tiện dạy học, đổi mới cơ chế, chính sách phát triển GDĐH hay đổi mới nội dung chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cũng trở nên vô nghĩa, thậm chí còn là sự lãng phí nghiêm trọng của GDĐH nói riêng và quản lý kinh tế - xã hội nói chung trong điều kiện kinh phí và ngân sách đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp như hiện nay. Chất lượng GDĐH do nhiều yếu tố tạo thành nhưng các yếu tố khác chỉ đóng vai trò hỗ trợ, tạo điều kiện để trí thức GDĐH thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Xét đến cùng, nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH được xem như tâm điểm không chỉ gắn bó các yếu tố của giáo dục trong một chỉnh thể mà còn quyết định trực tiếp đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực của GDĐH.

Kết luận chương 2

Đào tạo, bồi dưỡng, cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội vốn là trọng trách của ngành giáo dục, song GDĐH bao giờ cũng giữ vai trò chủ yếu. Theo đó, trí thức GDĐH luôn có vị trí nòng cốt góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu chấn hưng giáo dục để chấn hưng dân tộc.

Là một bộ phận của trí thức Việt Nam, trí thức GDĐH ở nước ta có đầy đủ những đặc điểm của tầng lớp trí thức nói chung. Ngoài ra, tính đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp luôn đòi hỏi trí thức GDĐH phải tự giác đem tài năng, trí tuệ và tâm huyết phụng sự Tổ quốc, nhân dân, gắn bó thiết thân với sự nghiệp “trồng người”. Ở họ, lao động được xem như một công việc hay một giá trị mà sự phát triển, trưởng thành, hoàn thiện nhân cách của nguồn nhân lực đã trở thành mục tiêu cao nhất. Là kỹ sư tâm hồn, lao động trí óc, sáng tạo bậc cao của trí thức GDĐH là lao động khoa học sư phạm, là quá trình truyền thụ học vấn, đào tạo hướng nghiệp; dạy chữ, dạy người và dạy nghề, đào tạo thế hệ trẻ thành những công dân hữu ích cho xã hội.

Xã hội càng phát triển theo hướng văn minh hiện đại, kinh tế tri thức càng đi vào chiều sâu với tác động của qui luật cạnh tranh và hội nhập thì càng cần thiết phải định hình lao động chất lượng cao của đội ngũ trí thức GDĐH. Đó là thước đo căn bản để xác định giá trị đích thực và tính hữu ích

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 21/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí