Định Hướng Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Đến Năm 2025


và đầy đủ về những yêu cầu đối với môi trường pháp lý, điều kiện hoạt động để khuyến khích và bảo đảm cho sự phát triển an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng, do đó chưa có chiến lược và giải pháp hỗ trợ phát triển dịch vụ ngân hàng một cách có hệ thống.

Khả năng giám sát của NHNN tuy đã được cải thiện nhưng nhìn chung còn hạn chế, không phát hiện kịp thời và xử lý khách quan các vụ việc sai phạm. NHNN cũng chưa thực hiện tốt khâu phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và các NHTM để kịp thời điều chỉnh các quy định và có biện pháp giám sát thích hợp.

Thứ ba, thị trường tài chính Việt Nam chưa hoàn thiện

Thị trường tài chính Việt Nam chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của các NHTM về huy động vốn và đầu tư làm hạn chế khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM. Thị trường tài chính phát triển chưa cân bằng, chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu vốn rất lớn cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, mặc dù hội nhập kinh tế quốc tế nhưng mức độ cạnh tranh của các ngân hàng trong nước chưa cao. Các NHTM Việt Nam chưa đưa được sản phẩm dịch vụ của mình có thị phần đáng kể trên thị trường tài chính, tiền tệ của khu vực và thế giới. Vì vậy, các NHTM cần có chiến lược huy động vốn với những lộ trình thích hợp, phù hợp với nhu cầu phát triển và khả năng kiểm soát của mỗi NH trong từng thời kỳ để có thể hoàn thiện các hoạt động dịch vụ đồng thời đáp ứng được nhu cầu đầu tư vốn cho nền kinh tế.

Thị trường dịch vụ ngân hàng phát triển dưới mức tiềm năng, mức độ thỏa mãn nhu cầu xã hội về dịch vụ ngân hàng còn thấp do sự hạn chế về số lượng, chất lượng và khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng. Nhiều dịch vụ ngân hàng quan trọng chưa được triển khai hoặc phát triển chưa đúng mức, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng cá nhân và dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện còn rất nhiều tiềm năng phát triển.


Do tập quán thói quen về sử dụng tiền mặt trong lưu thông mà đa số người lao động chưa có thói quen sử dụng tài khoản. Việc chi trả lương cho người lao động vẫn thực hiện bằng tiền mặt, các doanh nghiệp vẫn còn tực hiên thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ tiền mặt. Hiện nay, mặc dù đã thực hiện chi trả lương cho cán bộ công nhân viên chức qua tài khoản, nhưng khi lương đổ vào tài khoản, cán bộ nhân viên lại đến máy ATM của ngân hàng hoặc đến trực tiếp NH để rút hết tiền sử dụng trong tiêu dùng của bản thân và gia đình như thanh toán tiền điện, nước, trả nợ vay … thay vì có thể thực hiện bằng chuyển khoản. Vì thế, các giao dịch thực tế trên tài khoản không có hoặc có nhưng không nhiều.

Các NHTM chưa đáp ứng cơ bản nhu cầu về DVNH của các nhóm đối tượng khác nhau. Các đối tượng là người có thu nhập thấp, người nghèo và không có tài sản bảo đảm muốn tiếp cận với nguồn vốn vay NH tương đối khó khăn. Các đối tượng là người có thu nhập cao hơn cũng chưa được thoã mãn về các nhu cầu DVNH cao cấp hơn như chuyển tiền quốc tế, ngân hàng điện tử, quản lý tài sản...

Ngoài ra, các thủ tục giao dịch tại NH hiện nay chưa thuận tiện cho khách hàng, còn rườm rà, phong cách phục vụ chưa mang tính chuyên nghiệp cao, chưa thực sự trân trọng khách hàng… làm hạn chế khả năng tiếp cận DVNH của một bộ phận KH có nhu cầu chính đáng và có khả năng sử dụng các DVNH hiệu quả . Chính vì vậy, thị trường dịch vụ ngân hàng thương mại Việt Nam phát triển ở mức độ chưa cao.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chất lượng dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 12


Chương 3 của luận án tập trung phân tích thực trạng chất lượng dịch vụ của các ngân hàng thương mại Việt Nam về các lĩnh vực hoạt động như huy động vốn, tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, dịch vụ thẻ và ngân hàng điện tử…từ đó nhận định thực trạng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.

Tiếp đó, tiến hành khảo sát chất lượng dịch vụ do các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp, sử dụng mô hình đánh giá SERVQUAL và các thang đo để đánh giá chất lượng dịch vụ các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua sự hài lòng của khách hàng.


CHƯƠNG 4

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


4.1. ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025

4.1.1. Định hướng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện các chức năng về phát hành tiền tệ, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Các hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia.

Trước thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam, Ngân hàng nhà nước đã xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 1 từ 2011 đến 2015 và giai đoạn 2 từ 2016 đến 2020. Trong đó, trên cơ sở phát huy những kết quả đã đạt được và những bài học kinh nghiệm từ thực tế triển khai tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu giai đoạn 2011 – 2015, đề án Cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 với mục tiêu và định hướng như sau:

Tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường dựa trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; giảm số lượng các


tổ chức tín dụng yếu kém để có số lượng các tổ chức tín dụng phù hợp, có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản

Tiếp tục lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế; từng bước xử lý và xóa bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng có liên quan; đẩy mạnh thoái vốn ngoài ngành của các ngân hàng thương mại. Đến năm 2020, các ngân hàng thương mại cơ bản có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II, trong đó ít nhất 12-15 ngân hàng thương mại áp dụng thành công Basel II (phương pháp tiêu chuẩn trở lên); có ít nhất từ 1 đến 2 ngân hàng thương mại năm trong tốp 100 ngân hàng lớn nhất trong khu vực châu Á.

Phấn đấu đến năm 2020 tăng gấp 2 lần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các ngân hàng thương mại; hoàn thành việc niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam; các quỹ tín dụng nhân dân đạt mức vốn điều lệ tối thiểu 01 tỷ đồng.

Phấn đấu xử lý và kiểm soát nợ xấu để đến năm 2020 đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các tổ chức tín dụng, nợ xấu đã bán cho Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3% (không bao gồm các ngân hàng thương mại yếu kém đã được Chính phủ phê duyệt phương án xử lý).

Bên cạnh đó, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay các ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với một số thách thức như: Lợi thế cạnh tranh có nguy cơ suy giảm đối với các tổ chức tín dụng trong nước khi số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý tham gia vào thị trường tài chính nội địa ngày càng tăng, mở cửa thị


trường tài chính trong nước cũng làm gia tăng rủi ro do những tác động từ bên ngoài, vấn đề qui mô và năng lực tài chính của các định chế tài chính còn rất nhỏ bé so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cho tới thời điểm hiện nay, chưa có một định chế tài chính nào có phạm vi hoạt động mang tính khu vực và toàn cầu, cấu trúc của khu vực ngân hàng hiện nay đã đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình hoạt động. Tuy nhiên, đã có sự phát triển không đều của các loại hình định chế này, việc cung cấp các sản phẩm tài chính và dịch vụ ngân hàng còn chưa bao trùm các vùng lãnh thổ, các loại hình sản xuất kinh doanh. Các TCTD tập trung chủ yếu ở thành phố và đô thị lớn, trong khi ở các vùng nông thôn, đô thị nhỏ và nhất là vùng sâu, vùng xa, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng còn khó khăn. Với cấu trúc như vậy, nếu không có sự cải cách mãnh liệt khó có thể bảo đảm sự phát triển khu vực ngân hàng ổn định, vững mạnh, cạnh tranh được trên thị trường khu vực và toàn cầu. Do đó, NHNN có một số định hướng mục tiêu phát triển ngành ngân hàng trong thời gian tới như sau:

Tiếp tục cải cách toàn diện hệ thống ngân hàng theo hướng phát triển ổn định, bền vững, ngang tầm với các ngân hàng trên thế giới và khu vực về qui mô, năng lực tài chính, quán trị, dịch vụ và công nghệ ngân hàng; mô hình phát triển ngân hàng phù hợp với cơ cấu phát triển kinh tế, yêu cầu hội nhập quốc tế đáp ứng đầy đủ nhất nhu cầu và tiện ích xã hội trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế bền vững; tạo tiền đề để phát triển cao hơn cho thời kỳ chiến lược sau.

Xây dựng và phát triển NHNN lên một cấp độ mới trong việc thực hiện vai trò quản lý các hoạt động tiền tệ, tín dụng, thực thi chính sách tiền tệ, ngoại hối hiệu quá với tầm nhìn triển vọng vì lợi ích của khu vực tài chính, củng cố lòng tin của dân chúng đối với những động thái chính sách của


NHNN và hệ thống tiền tệ, chủ động kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu hàng năm, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô (mục tiêu này sẽ được cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu tiền tệ và mức lạm phát cụ thể sẽ được tính toán sau khi có số liệu kinh tế vĩ mô).

Phát triển thị trường tài chính nói chung, thị trường tiền tệ nói riêng theo hướng thiết lâp một cơ chế vận hành thị trường có hiệu quả, đảm bảo tính ổn định bền vững, thông suốt và phát huy tốt nhất vai trò của các thành viên thị trường.

Nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh và tạo dựng thương hiệu với những giá trị cốt lõi của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế (mục tiêu này sẽ được cụ thể hóa bằng các tiêu chí cụ thể, như tỷ lệ đủ vốn, tổng tài sản có, tỷ lệ ROE, ROA... sẽ được tính toán sau khi có các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội cụ thể).

4.1.2. Định hướng của Ngân hàng thương mại Việt Nam

Các NHTM Việt Nam định hướng phát triển theo hướng “an toàn- hiệu quả- bền vững”, cụ thể:

Thứ nhất, đối với dịch vụ huy động vốn

- Chú trọng các nguồn tiền gửi và tiết kiệm của khách hàng; tiền gửi, tiền vay trên thị trường liên ngân hàng; đồng thời đẩy mạnh phát hành giấy tờ có giá; dịch vụ tài khoản; tiếp cận vốn ủy thác (trong và ngoài nước); quản lý tài sản.

- Phát triển các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ tài khoản và quản lý tài sản trên nguyên tắc: chia sẻ rủi ro và lợi nhuận giữa khách hàng và ngân hàng, xây dựng hệ thống dịch vụ ngân hàng trọn gói và đa tiện ích cho nền kinh tế.

- Đẩy mạnh phát hành các công cụ nợ và trái phiếu dài hạn phù hợp với thông lệ quốc tế và đủ điều kiện niêm yết tại các sàn giao dịch chứng khoán.


- Hướng tới cạnh tranh huy động vốn chủ yếu dựa vào chất lượng, tính tiện lợi, công nghệ, hiệu quả, uy tín và mức độ tín cậy của thay cho hình thức cạnh tranh chủ yếu dựa vào lãi suất.

- Tranh thủ huy động các nguồn vốn ưu đãi quốc tế để đầu tư cho các đối tượng chính sách xã hội, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và các chương trình phát triển kinh tế.

Thứ hai, đối với dịch vụ tín dụng

- Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ qua các hình thức cấp tín dụng: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh, bao thanh toán, thấu chi, cho thuê tài chính, tạm ứng và các hình thức cấp tín dụng khác.

- Hình thành thị trường tín dụng thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các ngân hàng. Nâng cao năng lực cấp tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng trong lĩnh vực cho vay, tài trợ thương mại, cho thuê tài chính, tài trợ dự án. Đẩy mạnh phương thức cho vay đồng tài trợ và cho vay hợp vốn của ngân hàng đối với các dự án lớn. Triển khai từng bước thận trọng các dịch vụ tín dụng mới, nghiệp vụ phái sinh tín dụng và lãi suất (hoán đổi, kỳ hạn, hợp đồng lãi suất kỳ hạn, tương lai, quyền chọn….) phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Tiếp tục mở rộng tín dụng trên cơ sở bảo đảm phù hợp với qui mô, cơ cấu nguồn vốn, giới hạn an toàn hoạt động tín dụng. Coi chất lượng và an toàn hoạt động tín dụng là mục tiêu ưu tiên hàng đầu; gắn tăng trưởng tín dụng với kiểm soát chặt chẽ chất lượng và hiệu quả tăng trưởng tín dụng.

Thứ ba, đối với dịch vụ thanh toán

- Phát triển mạnh các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt trên cơ sở hệ thống công nghệ kỹ thuật và hệ thống thanh toán quốc gia hiện đại, an toàn, tin cậy, hiệu quả. Nâng cao các tiện ích thanh toán qua ngân hàng, đặc biệt là các cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán


qua ngân hàng và giảm mạnh mức độ sử dụng tiền mặt trong thanh toán.

- Bảo đảm đáp ứng một cách an toàn và đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế về thanh toán và dịch vụ ngân quỹ. Kết hợp chặt chẽ dịch vụ thanh toán với các dịch vụ ngân hàng, tài chính khác, đặc biệt là huy động vốn, tín dụng và ngoại hối. Hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng với các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức cung ứng dịch vụ, hàng hóa cá nhân và công cộng trong việc cung cấp và sử dụng các dịch vụ thanh toán. Sớm hình thành hệ thống chuyển mạch thanh toán thẻ thống nhất toàn quốc giữa các NHTM và với xã hội.

- Triển khai rộng rãi các dịch vụ thanh toán điện tử và các hệ thống giao dịch điện tử, tự động, ứng dụng rộng rãi các công cụ thanh toán mới theo tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm tiền điện tử, thẻ thanh toán nội địa, thẻ thanh toán quốc tế, thẻ đa năng, thẻ thông minh,…Tập trung đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản, trước hết là tài khoản cá nhân với các thủ tục thuận lợi, an toàn và các tiện ích đa dạngkèm theo để thu hút nguồn vốn rẻ trong thanh toán và tạo cơ sở phát triển các dịch vụ thanh toán thẻ, séc cá nhân và thanh toán không dùng tiền mặt.

- Mở rộng các hình thức thanh toán quốc tế (thư tín dụng, bao thanh toán, chuyển tiền quốc tế…) nhằm hỗ trợ các hoạt động đầu tư quốc tế và xuất nhập khẩu. Mở rộng các dịch vụ đại lý phát hành và thanh toán thẻ, séc quốc tế, đồng thời từng bước mở rộng phát hành thẻ thanh toán quốc tế của NHTM Việt Nam.

- Phát triển dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua hệ thống ngân hàng và có các biện pháp hữu hiệu để thu hút kiều hối qua hệ thống ngân hàng. Thiết lập kênh chuyển tiền kiều hối trực tiếp với các ngân hàng đại lý ở các quốc gia có nhiều người Việt nam sinh sống và làm việc. Mở rộng các điểm chi trả kiều hối và các phương thức chi trả kiều hối thuận tiện.


Thứ tư, đối với các dịch vụ khác

- Tập trung các nguồn ngoại tệ để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu chính đáng, hợp pháp về ngoại tệ của các doanh nghiệp và cá nhân. Bảo đảm quyền sở hữu, mua, bán và sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp và cá nhân theo quy định của pháp luật.

- Triển khai các dịch vụ quản lý rủi ro và các nghiệp vụ mới về ngân hàng đầu tư và kinh doanh tiền tệ, đặc biệt là các nghiệp vụ phái sinh tiền tệ, lãi suất, tỷ giá trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế.

- Tham gia có hiệu quả vào việc cung cấp các dịch vụ tài chính phi ngân hàng. Phát triển các dịch vụ tài chính phi ngân hàng như kinh doanh bảo hiểm – môi giới, đại lý, kinh doanh trực tiếp; kinh doanh chưng khoán – môi giới, bảo lãnh phát hành, lưu ký, quản lý quỹ đầu tư; tư vấn tài chính và đầu tư; quản lý tài sản; kinh doanh vàng; thu xếp vốn; môi giới đầu tư; bảo hiểm rủi ro hàng hóa qua các công cụ phái sinh… để trở thành các dịch vụ hỗ trợ quan trọng trong chiến lược đa dạng hóa hoạt động kinh doanh…

4.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

4.2.1. Hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ hiện có và phát triển sản phẩm dịch vụ mới

Như đã phân tích ở trên, hiện nay số lượng sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn hạn chế, chưa đáp ứng được kỳ vọng của khách hàng. Do đó, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng là một trong những việc mà các ngân hàng cần phải quan tâm. Việc ngân hàng hoàn thiện sản phẩm, phát triển sản phẩm dịch vụ mới, quan tâm đến lợi ích của khách hàng sẽ khiến khách hàng hài lòng. Các ngân hàng thương mại cần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả các dịch vụ hiện có, đồng thời phát triển thêm các sản phẩm dịch vụ mới. Cụ thể :


- Hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ hiện có

Các ngân hàng thực hiện kiểm tra lại các sản phẩm hiện tại đang cung cấp cho khách hàng, thực hiện đánh giá lại từng sản phầm dịch vụ có đáp ứng được yêu cầu khách hàng và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng hay không. Đối với các sản phẩm không đáp ứng yêu cầu hoặc không có tiềm năng phát triển cần loại bỏ ra khỏi danh mục sản phẩm. Đối với các sản phẩm tốt, đáp ứng nhu cầu khách hàng, có tiềm năng phát triển cần nâng cao hiệu quả, có biện pháp thúc đẩy tăng tính hấp dẫn của sản phẩm khuyến khích khách hàng sử dụng.

Ví dụ như đối với các khách hàng doanh nghiệp ngân hàng cần chú trọng hoàn thiện sản phẩm theo chiều hướng như: Đối với các doanh nghiệp có nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu, ngân hàng tư vấn cho doanh nghiệp các phương thức thanh toán an toàn và nhanh chóng, cung cấp thông tin về các ngân hàng hoạt động tốt trên quốc gia của đối tác để doanh nghiệp lựa chọn cho mình ngân hàng tốt nhất. Thông qua việc phát hành L/C ngân hàng có thể đưa thêm các nội dung trong hợp đồng L/C các thông tin về các công ty đối tác kinh doanh có uy tín, hệ thống, mặt bằng giá cả… nhằm tư vấn và cung cấp cho khách hàng, giúp khách hàng thỏa thuận và đàm phán hợp đồng có lợi nhất. Đối với doanh nghiệp hoạt động trong ngành dịch vụ như bưu điện, các công ty cung cấp nước sạch… hiện tại các ngân hàng đã có dịch vụ thu hộ tiền điện, tiền nước...tuy nhiên cần đẩy mạnh dịch vụ này, nỗ lực để có thể trở thành bộ phận “kế toán” thứ hai của doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp quản lý tài chính một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất...

- Phát triển sản phẩm dịch vụ mới

Tiến hành điều tra khảo sát nhu cầu cụ thể của từng nhóm đối tượng khách hàng để xây dựng và phát triển danh mục sản phẩm dịch vụ mới cụ thể theo các nhóm đối tượng.


Một trong những cách để có thể tạo ra các sản phẩm dịch vụ mới là kết hợp với các đối tác. Ví dụ điển hình cho xu hướng này là mô hình hoạt động của các loại thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ nội địa … liên kết với các tổ chức thẻ quốc tế như Visa/Mastercard, tham gia thị trường thẻ tại Việt Nam với rất nhiều các tiện ích khác nhau. Hoặc có thể liên kết với các hãng hãng hàng không, hay các ga tàu để cung cấp sản phẩm dịch vụ tiện ích cho các khách hàng thường xuyên phải di chuyển bằng máy bay, tàu hỏa như thanh toán tiền vé qua thẻ, bên cạnh đó có thể đưa ra một số chương trình khuyến mại, chiết khấu cho khách hàng, phân hạng khách hàng để có chính sách giảm giá vé, đặt hộ vé cho các khách hàng có tài khoản tại ngân hàng…Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể liên kết với các nhà cung cấp các nguyên liệu đầu vào cho các khu công nghiệp như điện, nước… để tư vấn, giao dịch, thanh toán, tạo mạng lưới hợp tác giúp khách hàng không tốn chi phí và thời gian giao dịch...

Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có thể nghiên cứu và đưa ra các sản phẩm thích hợp hơn với khách hàng, đáp ứng nhu cầu của từng nhóm khách hàng khác nhau như gửi tiền và rút tiền tại ATM để có thể tiết kiệm tối đa thời gian mà khách hàng phải tới giao dịch tại ngân hàng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho sinh viên, học sinh như các dịch vụ cho vay du học, cho vay chứng minh năng lực tài chính trong trường hợp khách hàng muốn chứng minh thu nhập nhưng không đáp ứng đủ điều kiện về số dư tiền gửi, qua đó ngân hàng thu được phí của khách hàng.

Ngân hàng có thể cung cấp một số dịch vụ mới như các dịch vụ giữ hộ tài sản, cho thuê két sắt tại ngân hàng. Nếu có dịch vụ giữ hộ tài sản đảm bảo an toàn thì các ngân hàng sẽ thu hút được khách hàng sử dụng dịch vụ này... Ngoài ra, ngân hàng có thể áp dụng một số dịch vụ đặc biệt cho khách hàng. Ví dụ như dịch vụ tư vấn, trung gian thanh toán đối với chuyển nhượng nhà đất, bất động sản. Hiện tại xu hướng đầu tư vào bất động sản tại Việt Nam

Xem tất cả 141 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí