Cơ Sở Khoa Học Về Chất Lượng Công Chức Cấp Xã

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu chất lượng CCCX huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Về không gian: Nghiên cứu, khảo sát - tìm hiểu về chất lượng CCCX tại thị trấn và các xã trên địa huyện Đắk Mil.

- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng chất lượng CCCX trong khoảng thời gian 2017 - 2020. Các giải pháp nâng cao chất lượng CCCX huyện Đắk Mil được đề xuất cho giai đoạn 2021 - 2025 là chủ yếu.

- Về nội dung: Trên cơ sở tìm hiểu các khái niệm công cụ, các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công chức, luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng về phẩm chất, năng lực CCCX huyện Đắk Mil, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CCCX của địa phương.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm, đường lối của Đảng về công tác cán bộ nói chung, công tác xây dựng đội ngũ CCCX xã nói riêng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp chủ yếu để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, trong đó tập trung vào một số phương pháp cơ bản sau đây:

Chất lượng công chức cấp xã huyện Đắk Mil, tỉnh Đắc Nông - 3

- Phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp khảo cứu tài liệu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chất lượng CCCX. Từ đó tổng hợp và hệ thống hóa nhằn cung cấp những luận cứ cho việc đánh giá chất lượng CCCX.

- Phương pháp thống kê, so sánh: Thu thập và xử lý thông tin, các số liệu về đội ngũ CCCX để so sánh, phân tích và rút ra những nhận định chủ

yếu về chất lượng CCCX trên địa bàn huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

- Phương pháp khảo sát - điều tra xã hội học: Học viên đã tiến hành khảo sát tại một số xã; đối tượng khảo sát được lựa chọn ngẫu nhiên, chủ yếu là CCCX, lãnh đạo UBND xã, một số người dân đến liên hệ giải quyết công việc hoặc thực hiện thủ tục hành chính tại UBND xã trên địa bàn huyện Đắk Mil. Cụ thể như sau:

Học viên đã thiết lập phiếu khảo sát để thăm dò ý kiến của một số cán bộ lãnh đạo UBND xã, CCCX về các nhận định - đánh giá thực trạng chất lượng CCCX trên địa bàn huyện Đắk Mil (Mẫu số 1); về mức độ cần thiết và tính khả thi của các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng CCCX huyện Đắk Mil được đề xuất trong luận văn (Mẫu số 2).

+ Số phiếu khảo sát đối với một số cán bộ lãnh đạo UBND xã, CCCX đã phát ra: 70, số phiếu thu vào: 49 (70%).

Phiếu phỏng vấn theo Mẫu 3 được thiết lập để thăm dò ý kiến đánh giá của một số người dân về phong cách, thái độ giao tiếp và chất lượng thực hiện công việc của CCCX huyện Đắk Mil.

+ Số phiếu theo Mẫu 3 đã phát ra: 70, số phiếu thu vào: 57 (81,4%).

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Về lý luận

Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về chất lượng CCCX trên cơ sở làm sáng tỏ nội hàm các khái niệm liên quan đến đề tài; phân tích các tiêu chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng và sự cần thiết nâng cao chất lượng đội ngũ CCCX.

6.2. Về thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm luận cứ khoa học giúp các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn được các giải pháp phù hợp và khả thi

trong công tác nâng cao chất lượng CCCX huyện Đắk Mil, hoặc xem xét - vận dụng ở một số địa phương khác có điều kiện tương tự.

Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo thêm cho việc giảng dạy, nghiên cứu của những người quan tâm cũng như các đơn vị chức năng quản lý, sử dụng công chức; đào tạo - bồi dưỡng CCCX.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chủ yếu của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở khoa học về chất lượng công chức cấp xã

Chương 2: Thực trạng chất lượng công chức cấp xã huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông

Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông

Chương 1


CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ


1.1. Một số vấn đề lý luận về chính quyền cấp xã, công chức cấp xã

1.1.1. Công chức, công chức cấp xã

1.1.1.1. Khái niệm công chức

Khái niệm “công chức” gắn liền với sự ra đời của đội ngũ thực thi công vụ trong bộ máy chính quyền ở các nuớc phương Tây. Từ nửa cuối thế kỷ XIX, nhiều nước đã thực hiện chế độ công chức.

Công chức là khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong các nền công vụ trên thế giới, dùng để chỉ những người thừa hành quyền lực nhà nước để quản lý xã hội.

Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm công chức như: Công chức là người làm việc thường xuyên trong bộ máy hành chính nhà nước; Công chức là người đại diện cho Nhà nước để thực thi quyền hành pháp; Công chức là những người làm việc trong bộ máy nhà nước, bao gồm cả các cơ quan QLNN, đơn vị sự nghiệp hay các lực lượng vũ trang… Có một số quốc gia quan niệm công chức bao gồm những người trực tiếp tham gia các hoạt động QLNN và cả những người làm việc trong các cơ quan có tính chất công cộng và được nhà nước trả công.

Do đặc điểm cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam nên quan niệm về công chức có những đặc thù riêng. Khái niệm công chức lần đầu tiên được nêu ra trong Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Quy chế công chức. Cùng với sự phát triển của đất nước nói chung và nền hành chính nói riêng, khái niệm công chức đã dần được quy định cụ thể và chi tiết hơn.

Năm 2008, Luật Cán bộ, công chức ra đời, đã đưa ra khái niệm công chức tại Khoản 2, Điều 4. Đến năm 2019, tại Khoản 1, Điều 1, Luật Sửa đổi,

bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 và Luật Viên chức số 58/2010/QH12 (Luật số 52/2019/QH14, ngày 25/11/2019, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2020), khái niệm công chức được điều chỉnh và nêu cụ thể: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [31].

Như vậy, định nghĩa trên có sự thay đổi so với Khoản 2, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức 2008: Lãnh đạo đơn vị sự nghiệp công lập không còn là công chức. Từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể thấy:

Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng các khái niệm trên đều có những điểm chung của công chức, cụ thể: (1) Là công dân của nước đó; (2) Được tuyển dụng qua thi tuyển; (3) Được bổ nhiệm vào một ngạch hoặc một vị trí công việc; (4) Được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

1.1.1.2. Quan niệm về chính quyền cấp xã và công chức cấp xã


Chính quyền cấp xã

- Theo Hiến pháp 2013 của nước ta, các đơn vị hành chính Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.

Như vậy, trong hệ thống chính quyền 4 cấp, chính quyền cấp xã (chính quyền cơ sở) là cấp thấp nhất, gần dân nhất; được thiết lập nhằm thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương, là nền móng của bộ máy hành chính Nhà nước, trực tiếp quan hệ với dân và là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Bộ máy chính quyền cấp xã được thiết lập nhằm thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương cấp xã; thay mặt nhân dân địa phương, căn cứ vào nguyện vọng của nhân dân địa phương quyết định và tổ chức thực hiện những vấn đề có liên quan đến phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội,… của nhân dân địa phương theo hiến pháp, pháp luật và các mệnh lệnh, quyết định của cấp trên.

Công chức cấp xã

Theo quy định trong Khoản 3, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức hiện hành, khái niệm công chức cấp xã được nêu như sau: “Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [31].

Định nghĩa trên đã chỉ rõ CCCX là công chức chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND xã - phường - thị trấn. Đây là các thành viên cấu thành tổ chức bộ máy quản lý ở cấp xã, có quan hệ mật thiết với tổ chức và góp phần thực hiện tốt mọi hoạt động của tổ chức. Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã, CCCX không những phải có nhiệt tình cách mạng, có phẩm chất đạo đức tốt mà còn phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ đạt chuẩn theo vị trí việc làm, năng lực công tác phù hợp để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. CCCX tốt sẽ giúp cho bộ máy QLNN cấp xã hoạt động nhịp nhàng, hiệu quả và ngược lại.

1.1.2. Các chức danh và đặc điểm công chức cấp xã

1.1.2.1. Các chức danh công chức cấp xã

Chính phủ và Bộ Nội vụ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) về các chức danh CCCX (07 chức danh) và số lượng CBCC cấp xã. Tại Khoản 3, Điều 61 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định CCCX gồm 7 chức danh sau đây [11]:

1. Trưởng Công an;

2. Chỉ huy trưởng Quân sự;

3. Văn phòng - thống kê;

4. Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);

5. Tài chính - kế toán;

6. Tư pháp - hộ tịch;

7. Văn hóa - xã hội.

Đối với các chính quyền cấp cơ sở, đặc biệt là chính quyền cấp xã, CCCX có vị trí và vai trò rất quan trọng. Vì vậy về chất lượng cũng như số lượng, đội ngũ CCCX phải đủ tầm, đủ lực để đáp ứng yêu cầu QLNN và vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã.

Hiện nay, theo Khoản 1, Điều 2 Nghị định 34/2019/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 4 Nghị định 92/2009/NĐ-CP, CBCC cấp xã được bố trí theo Quyết định phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn [16]. Cụ thể:

- Với xã loại 1: Tối đa 23 CBCC;

- Với xã loại 2: Tối đa 21 CBCC;

- Với xã loại 3: Tối đa 19 CBCC.

Số lượng CBCC cấp xã sẽ do UBND cấp tỉnh quyết định bằng hoặc thấp hơn số lượng nêu trên, bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Đặc biệt, nếu xã nào có công an chính quy là Trưởng Công an xã thì số lượng CBCC sẽ giảm 01 người.

Đồng thời, tại Điều 9 Thông tư 13/2019/TT-BNV của Bộ Nội vụ, mỗi chức danh CCCX được bố trí từ 01 người trở lên. Với yêu cầu, nhiệm vụ của từng xã, UBND tỉnh có thể bố trí tăng thêm công chức ở một số chức danh (trừ Trưởng Công an xã và Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự cấp xã) [7].

Như vậy, có 05 chức danh CCCX có thể được bố trí 02 người là Văn phòng - thống kê, Tài chính - kế toán, Tư pháp - hộ tịch, Văn hóa - xã hội, Địa chính - xây dựng - đô thị (hoặc Địa chính - nông nghiệp - xây dựng) và môi trường. Trong điều kiện hiện nay, làm việc ở cấp cơ sở còn có một lực lượng lao động đặc biệt, đó là những “cán bộ, công chức” của cấp trên được phân công, luân chuyển, điều động về làm việc tại cơ sở. Ngoài ra còn có một lực lượng CBCC về tăng cường cho cơ sở theo các đề án, chương trình công tác của cấp có thẩm quyền.

1.1.2.2. Đặc điểm của công chức cấp xã


- CCCX là người thường xuyên công tác ở cơ sở, trực tiếp làm việc với dân, góp phần đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống. Họ vừa là người gần dân nhất, trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng tình cảm của dân, của các thôn, bản, khu dân cư để phản ánh lên các cấp trên; vừa là người am hiểu phong tục tập quán, văn hóa địa phương nên thuận lợi trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy tính tự quản của cộng đồng dân cư. Vì vậy, yếu tố gần dân, hiểu dân, thân dân và luôn lắng nghe ý kiến, tâm tư và nguyện vọng của dân là một trong những đặc điểm nổi bật của CCCX.

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 30/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí