Một Số Kiến Nghị Nhằm Phát Triển Dnv&n Việt Nam


- Những quy định cơ bản của pháp luật kinh doanh và doanh nghiệp như Luật doanh nghiệp, Luật cạnh tranh, Luật chống độc quyền…, các chế‌

độ hỗ trợ và ưu đãi của nhà nước đối với các DNV&N; ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện đầy đủ nội dung các quy định trên đối với sự phát triển của DNV&N.

II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN DNV&N VIỆT NAM


1. Bối cảnh Kinh tế - xã hội


Việt Nam đang chuẩn bị bước sang kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (2006- 2010) của thiên niên kỷ mới trong bối cảnh tình hình đất nước và quốc tế có nhiều chuyển biến, với những khó khăn và thuận lợi đan xen. Nước ta đã ký nhiều hiệp định hợp tác đa phương và song phương với các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới và sẽ gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Thực hiện các cam kết WTO và các hiệp định đa phương, song phương sẽ tạo ra các cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời đặt ra thách thức trong cạnh tranh quốc tế đối với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là DNV&N.

Ở trong nước, nền kinh tế cũng đạt được một số thành tựu khả quan. Cùng với tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cũng duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính - tiền tệ; phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ... Bên cạnh đó, nước ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức như một số cân đối vĩ mô trong nền kinh tế còn hạn hẹp, chưa đủ sức cơ cấu lại nền kinh tế, dễ bị mất cân đối bởi những tác động từ yếu tố khách quan bên ngoài; quy mô nền kinh tế còn nhỏ (năm 2005, tổng sản phẩm trong nước đạt khoảng 53


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

tỷ USD và bình quân đầu người đạt khoảng 640 USD), rất thấp so với các nước phát triển trong khu vực. Về cơ bản nước ta chưa vượt ra khỏi nhóm các nước có mức thu nhập thấp, nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn còn.

Theo tiến trình mở cửa và hội nhập, Việt Nam phải tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng cho doanh nghiệp trong và ngoài nước; Nhà nước cắt giảm những chính sách bảo hộ đối với sản xuất trong nước như giảm thuế và mở cửa cho hàng hoá nhập khẩu... và từ bỏ chính sách bao cấp. Trong khi các doanh nghiệp quốc tế có tiềm lực kinh tế mạnh, có công nghệ hiện đại, có nhiều kinh nghiệm trong cạnh tranh, thì các DNV&N Việt Nam vốn dĩ đã yếu kém, lại chưa nhận thức đúng mức độ tác động của quá trình này đối với mình và cho rằng doanh nghiệp của mình sản xuất với quy mô nhỏ, chỉ tiêu thụ trong nước và quá trình hội nhập không ảnh hưởng tới mình. Chính vì vậy, việc lựa chọn hướng đi nào cho phù hợp để vừa phát huy được những thuận lợi và hạn chế được những khó khăn để phát triển kinh tế-xã hội hướng tới mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 và trước mắt là giai đoạn 2006-2010 là một vấn đề rất được Đảng và Nhà nước quan tâm.

Tìm hiểu chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc và một số kinh nghiệp đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập - 12

2. Một số kiến nghị nhằm phát triển DNV&N trong tiến trình hội nhập


Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện rất nhiều chính sách để hỗ trợ cho các DNV&N phát triển và nâng vị thế của mình trong nền kinh tế, đặc biệt là trong quá trình hội nhập. Những chính sách của Trung Quốc đã chứng tỏ được hiệu quả trong thực tiễn. Các DNV&N Trung Quốc không ngừng tăng cả về chất lượng và số lượng, giá trị đóng góp cho nền kinh tế Trung Quốc ngày càng cao. Nước ta có rất nhiều đặc điểm tương đồng với Trung Quốc về cả kinh tế và xã hội cũng như thời điểm tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. DNV&N nước ta cũng có rất nhiều nét giống với DNV&N Trung Quốc. Từ những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thúc đẩy sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này, chúng ta có thể đưa ra một số kiến nghị đối


với Chính phủ nhằm giúp các DNV&N Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, đảm bảo thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Việc hoạch định chính sách hỗ trợ cho các DNV&N cần phải dựa trên những đặc trưng chung của loại hình DNV&N (những đặc điểm khác với các doanh nghiệp có quy mô lớn) đồng thời cân nhắc đến những đặc trưng nổi bật của DNV&N Việt Nam. Trong ngắn hạn, việc hoạch định chính sách cần tập trung vào việc tạo ra môi trường pháp lý ổn định và có lợi cho sự tồn tại và phát triển của DNV&N. Sau đó là tập trung vào thiết lập hệ thống dịch vụ hỗ trợ năng động, hoàn chỉnh và giành riêng cho DNV&N. Cuối cùng là tập trung vào phát triển khả năng quản lý quốc tế của DNV&N và đào tạo những nhà lãnh đạo tài năng, có chuyên môn cao để tăng khả năng thích ứng của DNV&N trước những thay đổi của thị trường và tăng khả năng cạnh tranh của DNV&N. Dưới đây là những kiến nghị để hoạch định chính sách chiến lược ở tầm vĩ mô cho DNV&N trong thời gian tới :

2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý, cải cách thủ tục hành chính và chính sách tài chính theo hướng tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng cho DNV&N phát triển

a) Về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý: Việc tiếp tục hoàn thiện phát luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế nói chung theo hướng mọi công dân, tổ chức được quyền làm những gì mà pháp luật không cấm và Nhà nước đảm bảo khung pháp lý cho các hoạt động đó là một đòi hỏi tất yếu. Trong giai đoạn tới, nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực, triển khai thực hiện các cam kết song phương và đa phương về kinh tế, tạo nên một môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định và thông thoáng trên cơ sở hệ thống pháp lý đầy đủ, ổn định sẽ tạo


điều kiện để các doanh nghiệp phát triển về cả số lượng và chất lượng, thu hút thêm được mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển.

Về nguyên tắc, một môi trương kinh doanh ổn định nghĩa là ít có sự thay đổi về chính sách. Tuy nhiên, Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền nên các chính sách đều chưa hoàn thiện, thêm vào đó là đang chuẩn bị tham gia các cam kết song phương, đa phương, nên việc sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp với các cam kết đã ký là đòi hỏi mang tính khách quan. Nhưng theo phản ánh của các doanh nghiệp, hiện nay các chính sách của Việt Nam thay đổi quá nhanh đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của tất cả các doanh nghiệp. Các văn bản luật vừa xây dựng vừa kiểm nghiệm thực tế nên không ổn định, thường xuyên phải thay đổi và nhiều văn bản chưa có tầm chiến lược. Chỉ tính riêng trong năm 2005, Quốc hội đã thông qua 29 Luật, bộ luật đồng thời cho ý kiến về 17 dự án luật; Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua được 3 pháp lệnh và nhiều nghị quyết có quy phạm pháp luật, trong đó có nhiều đạo luật mà nội dung của nó liên quan trực tiếp đến các doanh nghiệp và hội nhập quốc tế như Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật sở hữu trí tuệ, Luật cạnh tranh, Luật Thương mại, Luật hải quan, Luật khiếu nại...Liệu các doanh nghiệp có thể nghiên cứu và nắm vững hết tất cả các điều luật này hay không trong cùng một lúc và liệu những văn bản luật này có tiếp tục thay đổi? Thực tế là nhiều văn bản luật chưa kịp có hiệu lực thì thực tiễn đã thay đổi và văn bản luật trở thành không còn phù hợp. Hiện tượng luật pháp đi sau thực tiễn còn khá phổ biến.

Vậy làm thế nào để giải quyết những vướng mắc trên?


Trước hết Chính phủ và các Bộ ngành liên quan cần lập kế hoạch xây dựng mới và/hoặc sửa đổi, bổ sung các luật, các văn bản pháp quy, trong đó chi tiết về dự kiến loại văn bản ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung; thời gian ban hành, thời gian văn bản có hiệu lực; hướng sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành


mới; đối tượng điều chỉnh. Kế hoạch này được phổ biến công khai để các đối tượng chịu ảnh hưởng có thể tiên liệu được để có thời gian lập kế hoạch điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp cho phù hợp.

Thứ hai, trong quá trình xây dựng pháp luật cần có sự tham gia rộng rãi của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, và đặc biệt là các hiệp hội doanh nghiệp, các doanh nghiệp, doanh nhân là đối tượng áp dụng của loại văn bản đó. Đồng thời, khi hoạch định chiến lược cũng như xây dựng hệ thống luật, các nhà làm luật phải có cái nhìn chiến lược dài hạn, cần tham khảo ý kiến của các nhà làm luật nước ngoài, nhất là các nước phát triển và đặc biệt là phải tham khảo các hệ thống quy tắc và luật pháp quốc tế. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cần đảm bảo tính thống nhất nội tại, rõ ràng về thứ bậc, chính xác, minh bạch và dễ hiểu, dễ thực hiện, có tính khả thi cao. Luật phải có mức độ điều chỉnh chi tiết, hợp lý để sau khi được ban hành có thể đi ngay vào cuộc sống phát huy hiệu lực, không cần đợi nghị định, thông tư hướng dẫn của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan; thực hiện nguyên tắc chỉ điều luật nào quy định rõ cần phải hướng dẫn chi tiết thì mới chờ cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản về vấn đề đó, khắc phục cơ bản và tiến tới chấm dứt tình trạng luật, pháp lệnh nào ban ra cũng phải chờ văn bản hướng dẫn.

hứ ba, công khai các chính sách, quy định mới và tiến hành đánh giá các tác động của các chính sách đó tới các DNV&N. Trước mắt cần nhanh chóng triển khai Luật Doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc đang tồn tại. Việc Quốc hội ban hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư thống nhất vào năm 2005 đã tạo môi trường thông thoáng hơn, bình đẳng hơn cho doanh nghiệp, dần xoá bỏ sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Để thực thi tốt 2 bộ luật này, Chính


phủ cần: kịp thời rà soát các quy định của pháp luật hiện hành để sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, ban hành mới các quy định pháp luật cho phù hợp với quy định của luật mới; sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật bảo đảm phù hợp với các quy định mới; đồng thời cần hết sức quan tâm đến việc tuyên truyền, phổ biến luật kịp thời, sâu rộng trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để nắm vững và thực hiện đúng các quy định của pháp luật; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tổ chức thi hành luật, tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra để kịp thời xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống giám sát hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, kiểm tra việc thực thi trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đảm bảo môi trường hoạt động lành mạnh và công bằng cho mọi doanh nghiệp. Sửa đổi những quy định về cơ chế quản lý và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn chưa thực sự phù hợp với cơ chế thị trường như trách nhiệm về đầu tư và thành lập doanh nghiệp, quyền định đoạt và chịu trách nhiệm đối với hoạt động của doanh nghiệp….Tiếp tục sắp xếp, giảm bớt đáng kể số lượng đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.

b) Về đẩy mạnh cải cách hành chính: Mặc dù đã đạt được một số thành tựu bước đầu trong việc cải cách hành chính, nhưng nhìn chung công tác hành chính ở nước ta vẫn tồn tại nhiều bất cập, năng lực của bộ máy nhà nước vẫn là khâu yếu, chậm thay đổi nhất, thể hiện trên các mặt như: nhận thức của bộ máy nhà nước nói chung chuyển biến không đồng đều giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan cùng cấp có liên quan, và chậm hơn nhiều so với những thay đổi của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn phong phú, năng động trong mấy năm qua; thái độ và tâm lý làm việc, phương thức và công cụ quản lý của các cơ quan liên quan chưa có thay đổi


một cách rõ nét để phù hợp với cơ chế, chính sách mới; tính khoa học, chuyên môn, chuyên nghiệp theo cơ chế thị trường trong các công việc của cơ quan nhà nước còn thấp; những bộ phận và công cụ cần thiết đối với thực hiện Luật doanh nghiệp nói riêng, hỗ trợ và quản lý phát triển doanh nghiệp nói chung chưa được xây dựng, củng cố và tăng cường đúng như quy định. Có những công chức, kể cả thành viên Uỷ ban nhân dân các cấp chưa nắm được những thay đổi cơ bản trong nội dung Luật Doanh nghiệp, có những cán bộ đầu ngành ở tỉnh cũng không nắm được tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sẽ ảnh hưởng tới doanh nghiệp trong nước như thế nào; trong một số cơ quan chức năng vẫn còn không ít công chức vừa kém năng lực vừa kém đạo đức đã gây nhiều cản trở đến hoạt động của doanh nghiệp. Những tồn tại trên đã và đang gây khó khăn và tăng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi phải được nhìn nhận một cách khách quan để khắc phục nhằm đẩy nhanh hơn, mạnh hơn công tác cải cách hành chính trong thời gian tới theo hướng thân thiện hơn với doanh nghiệp. Các quy định mang tính hành chính, mệnh lệnh điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại cần phải được dần dần thay thế bằng các quy định bình đẳng, ngang quyền, phù hợp với dân luật truyền thống và tập quán, góp phần làm giảm thiểu sự can thiệp của các cơ quan nhà nước bằng các biện pháp hành chính vào các quan hệ kinh tế, thương mại nói chung và các hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng, giảm cơ chế xin cho; nguyên tắc trong hoạt động kinh doanh công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm từng bước cần được xác lập.

Đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp giảm chi phí khởi sự doanh nghiệp đến mức cạnh tranh nhất so với các nước trong khu vực như tổ chức và thường xuyên duy trì đối thoại trực tuyến với doanh nghiệp, qua đó doanh nghiệp có thể nhận được những tham vấn về kinh doanh, nộp hồ sơ,


thực hiện thủ tục hoàn thuế và khai thác thông tin sơ cấp một cách nhanh và rẻ nhất; giảm nhẹ thủ tục đăng ký kinh doanh thông qua việc thiết lập hệ thống nối mạng đăng ký kinh doanh toàn quốc. Việc triển khai đăng ký kinh doanh cũng như việc quản lý hoạt động của doanh nghiệp bằng hệ thống điện tử, giúp giảm đi những chi phí không cần thiết, đồng thời doanh nghiệp có thể biết được quy trình đăng ký của mình đến đâu. Đây cũng là cơ sở để xây dựng cơ sở dữ liệu của các doanh nghiệp khiến cho việc quản lý, theo dõi hoạt động của doanh nghiệp dễ dàng hơn và công khai hoá thông tin cho các nhà đầu tư.

c) Chính sách về tài chính: Điều chỉnh hệ thống thuế phù hợp nhằm khuyến khích khởi sự doanh nghiệp, khuyến khích phát triển kinh doanh nhỏ và tạo việc làm. Đồng thời thực hiện đổi mới chế độ kế toán, thống kê theo hướng đơn giản hoá, khuyến khích doanh nghiệp tự kê khai và nộp thuế. Sửa đổi, bổ sung quy định về Thuế Thu nhập Doanh nghiệp theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, đơn giản hoá phương pháp và căn cứ tính thuế; giảm các trường hợp ưu đãi; tiến tới chế độ thuế phù hợp hơn. Khuyến khích các hộ kinh doanh thực hiện đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp.

Sửa đổi quy định về Thuế Giá trị gia tăng, Thuế Xuất nhập khẩu theo hướng xác định các tiêu chí minh bạch, rõ ràng, phù hợp với các hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã tham gia và các quy tắc của hội nhập.

2.2. Tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện đầy đủ các thị trường theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường

Phải xây dựng và hoàn thiện thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường ngoại hối, đặc biệt là thị trường chứng khoán, để khai thông luồng vốn đầu tư, tăng khả năng huy động vốn vào hoạt động kinh doanh.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 07/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí