Về Phương Thức Quản Lý Chào Bán Chứng Khoán Ra Công Chúng

phiếu khi một nhà đầu tư muốn mua một loại cổ phiếu nào đó thì ngoài việc xem xét tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp họ còn đặc biệt quan tâm đến tài sản hiện có của DN. Về nguyên tắc sau khi đã thực hiện kiểm toán tài chính giá trị tài sản DN phải được kê khai chi tiết trên các bản cáo bạch tài chính, nhưng thực tế nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường nên nhiều nguyên tắc cơ bản đang còn bất cập, không ít những tài sản có giá trị lớn đã bị bỏ quên, bỏ sót. Ngược lại có tài sản lại được đánh giá quá cao so với tài sản các DN khác cùng ngành, cùng quy mô cùng tính năng tác dụng. Chưa kể ngoài tài sản hữu hình cân đong đo đếm được còn có những tài sản vô hình như: Thương hiệu, thị phần vị trí địa lý của doanh nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ, năng lực quản lý điều hành của đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp …Những tài sản vô hình này có giá trị rất lớn nhưng cũng rất khó xác định nhưng không thể bỏ qua khi xác định giá trị doanh nghiệp.

Hộp 3: Thâu tóm doanh nghiệp ngoạn mục


Đã có không ít doanh nhân đang lao vào cuộc chơi thâu tóm các công ty bằng thị trường cổ phiếu. Điển hình đã từng xảy ra tại công ty du lịch

C. hoàn tất thủ tục lên sàn đấu giá. Lãnh đạo thành phố, tổng công ty chủ quản đều cho phép công ty du lịch C. theo cơ chế mới: bán ra 80% cổ phiếu, chỉ giữ lại 20% cổ phiếu nhà nước. Ngày kết thúc đấu giá, cả Ban giám đốc công ty du lịch C. vỗ tay phấn khởi vì giá đấu giá cao gấp đôi giá khởi điểm. Nhưng chỉ vài tháng sau, lãnh đạo công ty trên bật ngửa vì hóa ra những cá nhân đứng tên đấu giá trúng đều đã chuyển nhượng hết cổ phiếu cho một ngân hàng cổ phần lớn ở Tp.HCM!

các cá nhân tham gia đấu giá thật ra đều là người của một tổ chức, và

công ty C. (giờ là công ty cổ phần du lịch C.) có nguy cơ bị "nuốt chửng" bởi một tập đoàn tài chính! Khi mọi chuyện rõ ràng, ngân hàng cổ phần A. công

bố đã nắm giữ 70% cổ phiếu của C. và cử ngay 2 phó giám đốc sang C. nắm quyền điều hành.

Giám đốc trung tâm du lịch của công ty C. giờ được điều về phòng tổ chức chờ… việc. Cán bộ công nhân viên cũng xôn xao bất an vì "ông chủ" mới tổ chức ký hợp đồng ngắn hạn để sàng lọc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

[ Báo tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh số 348 ra ngày 18/3/2006]

Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng theo pháp luật Việt Nam - 7


Việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp không chính xác thường dẫn đến hậu quả là giá trị tài sản của doanh nghiệp thường mâu thuẫn với giá trị thực tế. Thực trạng này có thể dẫn đến việc biến cổ phần hoá doanh nghiệp thựch "Tư nhân hóa" một số cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp đã cố tình đánh giá thấp tài sản của Nhà nước để mua để thâu tóm doanh nghiệp vào tay mình. Như vậy khâu khó nhất và phức tạp nhất của cổ phần hóa là khâu định giá tài sản doanh nghiệp vì nhiều lý do tất cả các doanh nghiệp lớn trước khi IPO phải thuê các công ty tư vấn quốc tế tiến hành định giá.


2.3. VỀ PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RA CÔNG CHÚNG

Trên thế giới, có hai mô hình quản lý phổ biến đối với việc chào bán chứng khoán ra công chúng, đó là:

- Quản lý trên cơ sở xem xét điều kiện, tiêu chuẩn của tổ chức phát hành (còn gọi là quản lý theo chất lượng).

- Chế độ đăng ký trên cơ sở công bố thông tin đầy đủ, không có quy định về điều kiện cụ thể.

Mô hình quản lý theo công bố thông tin đầy đủ đòi hỏi các chuẩn mực công bố thông tin phải rõ ràng, các tổ chức phát hành ý thức được trách nhiệm công bố thông tin đầy đủ và chính xác. Các tổ chức trung gian trên thị trường

có đủ năng lực chuyên môn và chịu trách nhiệm trước pháp luật trong hoạt động kiểm toán, tư vấn và đưa ra ý kiến đánh giá về tổ chức phát hành trong các tài liệu công bố thông tin. Căn cứ những cơ sở đó, người đầu tư tự cân nhắc và ra quyết định đầu tư. Trách nhiệm của Cơ quan quản lý Nhà nước là quy định các chuẩn mực công bố thông tin và giám sát việc công bố thông tin theo đúng quy định. Trong khi đó, mô hình quản lý theo chất lượng đặt ra một số điều kiện đối với TCPH và cơ quan quản lý là người đánh giá sự "xứng đáng" của TCPH cũng như mức độ công bố thông tin cần thiết (ngoài những quy định chung).

Theo Luật chứng khoán mới ban hành năm 2006 thì quản lý việc đăng ký chào bán chứng khoán tại Việt nam là sự kết hợp cả hai mô hình theo chất lượng và công bố thông tin. Việc thực hiện theo mô hình này nhằm đảm bảo an toàn cho thị trường khi thị trường mới hình thành pháp luật chưa hoàn thiện.


2.4. CÔNG TY ĐẠI CHÚNG


Thông thường, khái niệm công ty đại chúng được quy định trong luật công ty hoặc luật thương mại của các nước, còn luật chứng khoán chỉ quy định về nghĩa vụ công bố thông tin của công ty đại chúng. Đối với những nước mà các luật liên quan chưa có quy định về công ty đại chúng thì Luật chứng khoán cần có quy định cụ thể Việt Nam là trường hợp này. Luật chứng khoán đưa ra khái niệm công ty đại chúng bao quát 3 loại hình công ty là công ty đã thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng (kể cả công ty đã chào bán chứng khoán ra công chúng trước khi Luật chứng khoán có hiệu lực), công ty có cổ phiếu được niêm yết trên SGDCK hoặc TTGDCK và công ty do phát hành riêng lẻ nhiều lần mà có cổ phiếu được ít nhất 100 nhà đầu tư sở hữu (không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp) và có vốn điều lệ thực góp từ 10 tỉ đồng trở lên [ Điều 25, Luật chứng khoán năm 2006].

Về nghĩa vụ của công ty đại chúng và các đối tượng liên quan:

- CTĐC phải nộp hồ sơ cho UBCK và thực hiện nghĩa vụ của CTĐC về công bố thông tin, quản trị công ty.

- Báo cáo về sở hữu của các cổ đông lớn.

- Những người có thông tin nội bộ không được giao dịch kiếm lời một cách không công bằng. CTĐC và cổ đông có quyền thu hồi lợi nhuận liên quan.

- CTĐC mua lại cổ phiếu của chính mình cần được giám sát.

- Các trường hợp chào mua công khai cổ phiếu của CTĐC phải tuân thủ pháp luật nhằm ngăn ngừa việc thâu tóm không công bằng.

2.5. YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CHÀO BÁN CỔ PHIẾU LẦN ĐẦU RA CÔNG CHÚNG‌

2.5.1. Đường lối chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước (đặc biệt là chính sách đầu tư).

Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới.[Điều 16 Hiến pháp 1992- sửa đổi 2001]

Thực hiện mục tiêu đó Đảng và Nhà nước ta đã và đang nỗ lực tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển sản xuất, hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ để tạo môi trường đầu tư cho các chủ thể kinh tế

trong xã hội thông qua thị trường vốn trong đó có thị trường chứng khoán.

Điều 4, Luật đầu tư 2005 khẳng định rõ về Chính sách đầu tư như sau:

- Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam.

- Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư.

- Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư.

- Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

- Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư.

Thực hiện chính sách đầu tư đó, thời gian qua, thị trường chứng khoán đã có bước phát triển nhanh; tuy nhiên, hoạt động của thị trường cho thấy vẫn chưa thực sự ổn định, nhiều doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với nhà đầu tư, đặc biệt là vấn đề công bố thông tin. Mặt khác, thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung hình thành tự phát, sôi động, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nhà đầu tư. Điều này có thể gây thiệt hại đến quyền lợi của nhà đầu tư, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Từ tình hình trên đây các cơ quan chức năng phải có biện pháp cấp bách để quản lý thị trường nhằm ngăn ngừa nguy cơ lừa đảo, đổ vỡ và ảnh hưởng đến thị trường nói chung, gây mất lòng tin của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.

Để đảm bảo tăng cường quản lý và phát triển bền vững thị trường chứng khoán, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời có chỉ thị số 20 ngày 23/06/2008 về

tăng cường quản lý thị trường chứng khoán nhằm tạo điều kiện bình ổn thị trường chứng khoán .

* Đối với tổ chức chào bán chứng khoán:


- Việc chào bán chứng khoán ra công chúng phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Các tổ chức chưa đáp ứng điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng theo quy định tại Điều 12 Luật Chứng khoán không được phép thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng. Mọi trường hợp chào bán chứng khoán vi phạm pháp luật phải bị đình chỉ và xử phạt theo quy định Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 08 tháng 3 năm 2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán;

- Việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ phải tuân thủ theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Tổ chức phát hành cổ phiếu riêng lẻ để tăng vốn phải làm thủ tục đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan quản lý cấp phép hoạt động về phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, cụ thể:

- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý chào bán cổ phiếu riêng lẻ đối với các ngân hàng thương mại cổ phần, các công ty tài chính cổ phần;

- Bộ Tài chính quản lý chào bán cổ phiếu riêng lẻ đối với các công ty cổ phần bảo hiểm; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quản lý chào bán cổ phiếu riêng lẻ đối với các công ty đại chúng và công ty cổ phần chứng khoán;

- Cơ quan đăng ký kinh doanh (Sở Kế hoạch và Đầu tư) quản lý chào bán cổ phiếu riêng lẻ đối với các doanh nghiệp do Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

- Các doanh nghiệp không phải là pháp nhân Việt Nam không được chào bán chứng khoán trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp thực hiện theo lộ trình cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.

* Đối với công ty cổ phần đại chúng:

- Các công ty cổ phần đủ tiêu chuẩn trở thành công ty cổ phần đại chúng phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Công ty cổ phần đại chúng

không thực hiện đăng ký sẽ bị xử phạt theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 08 tháng 3 năm 2007 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán;

- Các công ty cổ phần đại chúng, bao gồm cả các công ty niêm yết thực hiện chế độ kiểm toán, công bố thông tin, quản trị công ty theo quy định của Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn có liên quan.

* Đối với Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán:


- Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán tổ chức giao dịch chứng khoán bảo đảm an toàn, công bằng, công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật về chứng khoán và quy chế giao dịch được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;

- Bộ Tài chính chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xây dựng đề án tổ chức giao dịch chứng khoán cho các công ty cổ phần đại chúng trong năm 2008 nhằm mở rộng thị trường chứng khoán có tổ chức;

- Nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán bất hợp pháp. Các hoạt động cung cấp thông tin, nhu cầu mua, bán, giá cả chứng khoán trên các phương tiện thông tin đại chúng phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Người đứng đầu các phương tiện thông tin này phải đảm bảo sự chính xác, minh bạch về nguồn thông tin đã đăng tải.

- Khẩn trương trình Chính phủ ban hành Nghị định về phát hành chứng khoán riêng lẻ; rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có kế hoạch bổ sung, hoàn chỉnh trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành;

- Chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện quản lý phát hành chứng khoán ra công chúng, đăng ký công ty cổ phần đại chúng, thẩm định cấp phép các hồ sơ thành lập và hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán, quản lý giám sát thị trường chứng khoán tập trung, thành lập thị trường giao dịch chứng khoán cho các công ty đại chúng;

- Xây dựng kế hoạch tổng mức chào bán hàng tháng theo tín hiệu thị trường (bao gồm việc chào bán của các công ty đại chúng đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và việc chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá) để đảm bảo cân đối cung cầu trên thị

trường. Đối với việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tài chính sớm trình Chính phủ ban hành quy định về phương thức chào bán thoả thuận và bảo lãnh phát hành, đồng thời quy định chi tiết hơn vấn đề định giá và công bố thông tin để nâng cao tính linh hoạt, thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước;

- Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán

2.5.2. Xác định giá trị doanh nghiệp.

Nghị định 109/2007/NĐ-CP quy định:

- Doanh nghiệp cổ phần hóa có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên hoặc giá trị vốn nhà nước theo sổ kế toán từ 10 tỷ đồng trở lên hoặc có vị trí địa lý thuận lợi phải thuê các tổ chức có chức năng định giá như: các công ty kiểm toán, công ty chứng khoán, tổ chức thẩm định giá, ngân hàng đầu tư trong nước và ngoài nước có chức năng định giá (dưới đây gọi tắt là tổ chức tư vấn định giá) thực hiện tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp.

- Doanh nghiệp cổ phần hóa không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này không nhất thiết phải thuê tổ chức tư vấn định giá xác định giá trị doanh nghiệp. Trường hợp không thuê tổ chức tư vấn định giá thì doanh nghiệp tự xác định giá trị doanh nghiệp và báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp.

- Cơ quan quyết định cổ phần hóa lựa chọn tổ chức tư vấn định giá thuộc danh sách do Bộ Tài chính công bố. Trường hợp có từ 02 tổ chức tư vấn định giá đăng ký tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn định giá trở lên thì phải tổ chức đấu thầu lựa chọn đơn vị thực hiện tư vấn định giá theo quy định hiện hành.

- Tổ chức tư vấn định giá được lựa chọn các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp thích hợp để định giá, bảo đảm các nguyên tắc quy định tại Nghị định này và phải hoàn thành theo đúng thời hạn, đúng các cam kết trong hợp đồng đã ký. Doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm cung cấp đầy đủ,

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 26/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí