Thứ sáu, Luật Chứng khoán hiện nay chỉ quy định, các NHTMCP khi tiến hành phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) phải có một tổ chức tài chính tư vấn, chứ không bắt buộc phải có một đơn vị bảo lãnh cho đợt phát hành đó. Nên chăng phải có bảo lãnh phát hành thì NĐT sẽ an tâm hơn, bởi giá cổ phiếu đó đã được bảo chứng và ở một chừng mực nào đó sẽ trở nên chuẩn hơn; tình trạng IPO không thành công và phát hành cổ phiếu phải chào bán lại, chào bán lần hai sẽ không xảy ra.
Thứ bảy, quy định về xử phạt hành chính và hình sự còn hạn chế (hình phạt quá nhẹ không đủ sức răn đe) và thủ tục từ phía cơ quan quản lý nhà nước tuy đã được cải tiến, nhưng vẫn còn rườm rà. Do vậy, tuy ít có trường hợp NHTMCP chào bán cổ phiếu ra công chúng bị xử phạt nhưng với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay sẽ có ngày càng nhiều trường hợp ngân hàng cố tình vi phạm để thực hiện việc chào bán cổ phiếu ra công chúng khi chưa đáp ứng đủ điều kiện. Khi đó các NHTMCP có thể lựa chọn hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng nhưng không đăng ký và sẵn sàng chịu phạt.
Như vậy, nguyên nhân chính của tất cả những bất cập trên là khung pháp lý chưa đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động thực sự công bằng, minh bạch cũng như chưa đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư; thị trường hoạt động trong điều kiện chưa đủ các quy định về chống gian lận trong khâu phát hành đến giao dịch chứng khoán; chưa đủ các quy định về bảo lãnh phát hành,... Dễ nhận thấy, các quy định pháp luật cho hoạt động chào bán cổ phiếu của NHTMCP ở Việt Nam trong thời gian qua còn thiếu hụt đáng kể so với tốc độ tăng quy mô hoạt động này tại các ngân hàng. Các chế tài xử phạt chưa đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, tính răn đe đối với các trường hợp gian lận chứng khoán, chậm công bố thông tin. Theo Ngân hàng thế giới (WB), hiện tại cơ chế bảo vệ nhà đầu tư ở Việt Nam là điểm còn khá yếu và quan ngại (WB, 2011).
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Như vậy, cùng với quá trình phát triển kinh tế, hoạt động phát hành chứng khoán nói chung và hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng của NHTMCP ở Việt Nam nói riêng đã trở nên vô cùng quan trọng. Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của NHTMCP ở Việt Nam hiện nay đã đang được nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện và biện chứng. Pháp luật về vấn đề này đã có những quy định làm cơ sở cho hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng của NHTMCP trong thực tế. Tuy nhiên để cho hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng của NHTMCP được hoạt động trôi chảy và hiệu quả thì hệ thống các quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng nói chung và chào bán cổ phiếu ra công chúng của NHTMCP nói riêng cần được sửa đổi, bổ sung nhiều hơn nữa. Trên cơ sở nội dung các vấn đề đặt ra của pháp luật về phát hành chứng khoán ra công chúng nói chung và chào bán cổ phiếu ra công chúng của NHTMCP nói riêng, cũng như yêu cầu đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán, tôi đã đưa ra một số phương hướng và giải pháp cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của NHTMCP ở Việt Nam hiện nay. Hy vọng rằng trong thời gian tới, cùng với quá trình sửa đổi, bổ sung một cách hợp lý thì khung pháp lý về hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng của NHTMCP ở Việt Nam sẽ thực sự phát huy hết được tác dụng điều chỉnh của mình trong việc tạo lập ra một kênh huy động vốn hữu hiệu đóng góp cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHIẾU RA CÔNG CHÚNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
3.1 Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam
3.1.1 Phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và chiến lược phát triển thị trường chứng khoán
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về chào bán cổ phiếu nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung luôn là một trong số những mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm vừa qua, việc Đảng và Chính phủ Việt Nam quyết tâm theo đuổi đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước theo hướng phát triển một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết và quản lý của Nhà nước đã được thực tế chứng minh là một chủ trương sáng suốt, phù hợp với quy luật phát triển chung của thời đại và bước đầu mang lại những thành quả hết sức to lớn cho công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, để có thể tạo lập được một nền kinh tế thị trường phát triển như mong muốn trên cơ sở những tồn tại lạc hậu, thấp kém của Việt Nam hiện nay thì quả là một điều hết sức khó khăn và có nhiều thách thức đặt ra đòi hỏi chúng ta phải giải quyết. Một trong những thách thức đó là đòi hỏi chúng ta phải giải quyết nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Trong sự hình thành và phát triển đồng bộ của cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay thì việc tạo lập một thị trường vốn mới đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Do đó trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội Đảng VIII đã có đoạn mang tính định hướng là:“Phát triển thị trường vốn bằng nhiều hình thức thu hút tiền gửi trung và dài hạn qua ngân hàng và qua các công ty tài chính để cho vay đầu tư phát triển. Mở rộng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu và xúc tiến việc thành lập thị trường chứng khoán đồng thời đảm bảo cho sự hoạt động lành mạnh của thị trường này”. Đây có thể đánh giá là một quan điểm hết sức đúng đắn của Đảng về chính sách tài chính tín dụng nói chung cũng như chính sách huy động vốn nói riêng. Quan điểm này một lần nữa tiếp tục khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ
Có thể bạn quan tâm!
- Công Bố Thông Tin Chào Bán Cổ Phiếu Ra Công Chúng.
- Các Vi Phạm Và Xử Lý Vi Phạm Liên Quan Đến Hoạt Động Chào Bán Cổ Phiếura Công Chúng Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
- Những Vướng Mắc Trong Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Chào Bán Cổ Phiếu Ra Công Chúng Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ở Việt Nam.
- Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam - 14
- Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
IX và cho tới thời điểm hiện nay khi mà TTCK đã ra đời và đi vào hoạt động được một thời gian và đang phát huy tác dụng của mình thì có thể khẳng định rằng: Việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và TTCK cũng như hoạt động chào bán cổ phiếu của NHTMCP nói riêng chính là điều kiện để thực hiện tốt hơn chính sách huy động vốn quốc gia và góp phần vào việc thực hiện thành công đường lối chung của Đảng, Nhà nước về phát triển nền kinh tế đất nước.
Với hơn 10 năm hoạt động, TTCK Việt Nam vẫn chưa thật có bước phát triển bền vững. Nhìn vào chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2011 – 2020, nhiều mục tiêu lớn được đặt ra, song cái cần thiết nhất lúc này lại chính là việc cần ban hành ngay những sản phẩm thiết yếu và một khung pháp lý sát với hoạt động của thị trường cho nhà đầu tư.
Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 đặt mục tiêu phát triển về quy mô chất lượng hoạt động cho TTCK, duy trì trật tự, an toàn thị trường, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập...
Một nội dung nữa cần được nhấn mạnh là đảm bảo tính công khai, minh bạch của thị trường, khuyến khích các chủ thể tham gia, gắn TTCK với phát triển thị trường tiền tệ, bảo hiểm. Quy mô vốn hóa thị trường vào năm 2015 dự kiến 65 – 70% GDP, năm 2020 dự kiến 90 – 100% GDP.
Thành tố quan trọng nhất của thị trường là các nhà đầu tư, bản đề án đặt ra mục tiêu phát triển các quỹ đầu tư, công ty đầu tư theo hướng đa dạng hóa các loại hình quỹ, thành lập các tổ chức phụ trợ (định mức tín nhiệm, đăng kí chuyển nhượng, thanh toán). Phát triển hệ thống nhà đầu tư tổ chức, ngân hàng, tài chính – chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư hưu trí, đi đôi với chuyên nghiệp hóa các nhà đầu tư cá thể...
Để thực hiện những giải pháp trên, Nhà nước sẽ có chính sách khuyến khích về thuế, phí, lệ phí với nhà đầu tư, công ty niêm yết, công ty chứng khoán,nâng tỉ lệ sở hữu nước ngoài gắn với lộ trình cam kết.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tự quản, hiện đại hóa và tăng cường năng lực hệ thống công nghệ tại các Sở giao dịch, Trung tâm lưu kí chứng
khoán, hoàn thiện và phát triển hệ thống giám sát 2 cấp, giám sát giao dịch tự động (trong và sau giờ giao dịch), tự động hóa hệ thống lưu kí, thanh toán bù trừ (rút ngắn chu kì thanh toán), xây dựng hệ thống đăng kí lưu kí 1 cấp, xây dựng và phát triển hệ thống công bố thông tin tự động. Đặc biệt, sẽ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, áp dụng mô hình quản lý dựa trên rủi ro, Nhà nước điều tiết thị trường thông qua các chính sách thuế, lãi suất, đầu tư, hạn chế can thiệp bằng công cụ hành chính.
Thực tế thị trường đang đòi hỏi sớm có các quy định hướng dẫn các nghiệp vụ chứng khoán trọng yếu như giao dịch kí quỹ, giao dịch bán khống có quản lý (cơ chế vay, cho vay chứng khoán), giao dịch mua – bán bắt buộc, các quy định hướng dẫn tổ chức thực hiện và giao dịch chứng khoán phái sinh như quyền chọn, hợp đồng tương lai...
Thực hiện chiến lược phát triển TTCK trong 10 năm tới là điều không đơn giản, nhất là làm sao để chiến lược đó khả thi. Nhưng đối với các nhà đầu tư trên thị trường, những mục tiêu đó có lẽ quá xa với, cái họ cần đơn giản chỉ là những công cụ, giải pháp hỗ trợ giao dịch thiết thực, tiếp cận thông tin một cách chuẩn xác nhất để ra quyết định hợp lý trong mỗi phiên giao dịch.
3.1.2 Yêu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và thị trường chứng khoán.
Ngày 7 tháng 11 năm 2006 là ngày Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, đánh dấu một mốc son trong công cuộc hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đem đến nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam.
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO thực sự tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của thị trường chứng khoán. Các chỉ số chứng khoán tăng mạnh thể hiện hy vọng của nhà đầu tư vào tiềm năng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Rất nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn hình thức chào bán cổ phần ra công chúng để huy động vốn, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nên nguồn hàng hóa dồi dào cho thị trường chứng khoán. Chứng khoán và thị trường chứng khoán trở thành
những khái niệm được nhắc đến nhiều nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng và thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.
Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng đem lại nhiều thách thức và nguy cơ lớn vì thị trường chứng khoán Việt Nam nay đã kết nối với thế giới, trở thành một bộ phận của thị trường chứng khoán toàn cầu. Dòng vốn lưu chuyển tại thị trường chứng khoán Việt Nam lúc này không chỉ là của các cá nhân tổ chức trong nước mà còn có sự tham gia của các định chế tài chính khổng lồ trên thế giới. Các định chế tài chính này đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của các thị trường chứng khoán trên thế giới nhưng cũng là nguyên nhân gây khủng hoảng, sụp đổ của nhiều thị trường chứng khoán quốc gia. Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khả năng lây lan những rủi ro và ảnh hưởng của biến động tài chính do sự liên kết toàn cầu rất dễ xảy ra.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra với thị trường chứng khoán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế là phải có hành lang pháp lý vững chắc, điều chỉnh được những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển ổn định và lâu dài.
3.1.3 Khắc phục những bất cập của pháp luật chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng thương mại cổ phần.
Trên cơ sở các nội dung đã trình bày ở chương 1 và chương 2 của luận văn, có thể thấy hiện nay tuy chúng ta đã xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng của NHTMCP nhưng vẫn còn không ít các bất cập giữa các văn bản, chồng chéo giữa pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Đó là bất cập về điều kiện thực hiện chào bán. Tuy các quy định về điều kiện chào bán khá cụ thể nhưng không đầy đủ, chưa có cơ chế kiểm soát báo cáo tài chính của ngân hàng phát hành. Đối với hoạt động IPO, việc quy định và kiểm soát chặt chẽ chế độ tài chính, chế độ báo cáo ngay từ thời điểm đầu tiên này có ý nghĩa rất quan trọng góp phần xây dựng TTCK minh bạch. Từ giai đoạn 2001 đến 2006 Bộ Tài chính đã ban hành 30 chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và các thông tư
hướng dẫn. Các VAS được dịch từ chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) nhưng có sửa đổi nên đôi khi mất đi tính nhất quán của hệ thống. IAS đưa ra các định nghĩa, phương pháp làm, cách trình bày và những thông tin bắt buộc trong báo cáo tài chính nhưng không đưa ra các biểu mẫu bắt buộc các công ty phải tuân theo. Chế độ kế toán Việt Nam không những đưa ra một hệ thống tài khoản kế toán thống nhất mà còn đưa ra biểu mẫu báo cáo tài chính bắt buộc cho mọi doanh nghiệp. Bên cạnh đó, lãi xuất cơ bản của mỗi cổ phiếu (EPS) chưa được tính đúng. Theo VAS 30, Thông tư số 21/2006/TT – BTC hướng dẫn VAS 30 và IAS 33, EPS cơ bản được tính bằng chia tổng lãi (lỗ) thuần thuộc các cổ đông phổ thông cho số bình quân tham gia quyền cổ phiếu phổ thông lưu hành trong kỳ. VAS 30 không đề cập đến việc điều chỉnh giảm các khoản lãi không dành cho cổ đông phổ thông như quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi dành cho nhân viên. Theo IAS những khoản này là các khoản chi phí để trừ khỏi lãi dành cho cổ đông phổ thông [43]. Sau một năm hoạt động có lãi công ty dành 5-15% tổng lãi thuần sau thuế để chi cho nhân viên dưới hình thức lập các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi xã hội. Như vậy có thể thấy lợi nhuận của báo cáo tài chính lập theo chế độ kiểm toán của Việt Nam sẽ cao hơn rất nhiều so với báo cáo lập theo chuẩn mực quốc tế.
Bên cạnh đó thủ tục tiến hành chào bán còn phức tạp. Lấy trường hợp IPO của Vietcombank làm ví dụ tiêu biểu. VCB được đánh giá là NHTM Nhà nước có chất lượng tốt nhất so với các NHTM Nhà nước khác ở Việt Nam. Đợt IPO của VCB khá thành công với tổng lượng cổ phiếu chào bán phiên đầu tiên đạt 97,5 triệu tương đương 6,5% vốn điều lệ, có 9473 nhà đầu tư tham gia với lượng đặt mua là 122217200 cổ phiếu, giá trúng thầu trung bình đạt 107.860 đồng/cổ phiếu. Tuy vậy nhiều nhà phân tích vẫn day dứt về những bất cập từ đợt IPO này. Theo tác giả Phong Lan trên Tạp chí Đầu tư chứng khoán thì việc IPO quá cao sẽ không đánh giá được bản chất giá trị thực sự của cổ phiếu.Do vậy giá giao dịch trên thị trường nhanh chóng giảm từ mức hơn 107.000 đồng/cổ phiếu xuống còn 50.000 đến
60.000 đồng/cổ phiếu. Điều này phản ánh tình trạng thị trường bong bong ở nước ta. Không chỉ có vậy, IPO còn gắn viền với việc thay đổi quyền sở hữu của cổ đông
trong công ty. Vietcombank có khoảng 15500 nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu thông qua IPO bao gồm nhà đầu tư nhỏ lẻ, cán bộ nhân viên mua cổ phần ưu đãi…nhưng chiếm chưa đến 10% vốn điều lệ. Nhà nước vẫn nắm giữ hơn 90% vốn theo điều lệ của VCB có quyền triệu tập họp HĐQT, thông qua nội dung họp ĐHĐCĐ trong khi 15500 nhà đầu tư kia chỉ có thể “ngồi nhìn và làm theo”. Đó là bào toán lớn về “hậu IPO” mà nhiều doanh nghiệp chưa giải quyết được [17, tr.14].
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam.
3.2.1 Về phương thức chào bán cổ phiếu ra công chúng:
Luật Chứng khoán không quy định về phương thức chào bán cổ phiếu ra công chúng. Có thể nói, việc quy định phương thức chào bán cổ phiếu là rất cần thiết để đảm bảo cho sự ổn định của thị trường và giảm chi phí cho các nhà phát hành. Sự thành bại của một đợt phát hành rất quan trọng. Chính vì vậy, để đảm bảo sự thành công của đợt chào bán đòi hỏi tổ chức chào bán phải lựa chọn một phương thức phát hành tối ưu nhất. Trong các phương thức phát hành cổ phiếu, bảo lãnh phát hành được xem là phương thức hiện đại và an toàn hơn cả. Trên thế giới, bảo lãnh phát hành đã được sử dụng từ rất lâu. Tại Việt Nam, phương thức này đã được quy định tại Nghị định 48/1998 ngày 11 tháng 7 năm 1998, sau đó là Nghị định144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán 2010 đã bổ sung sự thiếu sót về quy định này của Luật Chứng khoán 2006 tuy nhiên vẫn chưa đầy đủ. Vì vậy, trong thời gian tới, cần bổ sung những quy định cụ thể về điều kiện thành lập tổ chức bảo lãnh phát hành, cơ cấu tổ chức, hoạt động của tổ chức bảo lãnh và những vấn đề khác liên quan đến việc thành lập và giải thể nó. Có như vậy, các ngân hàng chào bán cổ phiếu có thể yên tâm phát hành cổ phiếu với số lượng lớn, các nhà đầu tư cũng có cơ sở để đặt niềm tin vào các dự án đầu tư cổ phiếu của mình. Bên cạnh phương thức bảo lãnh phát hành, cần quy định thêm một số phương thức phát hành cổ phiếu như đại lý phát hành hay đấu thầu để các tổ chức chào bán có cơ hội chọn lựa phương thức chào bán cổ phiếu ra công chúng phù hợp với điều kiện của mình nhất.