Mối Liên Hệ Giữa Cấu Trúc Sở Hữu, Quản Trị Công Ty Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại


lên. Sở hữu chéo nếu phổ cập ở diện rộng, với mức độ lớn, trong thời gian dài sẽ làm tích tụ những hạn chế kể trên, gây ra rủi ro và trì trệ cho nền kinh tế.

2.3. CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC SỞ HỮU TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THÔNG QUA QUẢN TRỊ CÔNG TY

Cấu trúc sở hữu của ngân hàng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động NHTM thông qua nhiều kênh truyền dẫn khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án này sẽ nghiên cứu tác động giữa sở hữu và hiệu quả hoạt động thông qua kênh truyền dẫn chính là hệ thống quản trị công ty trong ngân hàng.

2.3.1. Quản trị công ty trong ngân hàng thương mại

2.3.1.1. Khái niệm và vai trò của quản trị công ty

Quan niệm và nội dung của quản trị công ty ở các quốc gia khác nhau là rất khác nhau do sự khác nhau về nguồn gốc thể chế luật pháp, đặc tính quốc gia, văn hóa và trình độ phát triển của thị trường tài chính tại mỗi nước; từ đó ảnh hưởng đến quyền của cổ đông, quyền của chủ nợ và thực thi quyền tư hữu. Theo OECD, “Quản trị công ty là một loạt mối quan hệ giữa Ban Giám đốc, HĐQT, các cổ đông và các bên có liên quan khác trong một doanh nghiệp. Quản trị công ty còn là một cơ chế để thông qua đó xác định các mục tiêu của doanh nghiệp, phương tiện để đạt được các mục tiêu đó và theo dõi kết quả thực hiện”.

Cần phân biệt quản trị công ty và quản lý công ty. Quản trị công ty tập trung vào các cơ cấu và các quy trình của công ty nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch, tính trách nhiệm và giải trình; trong khi đó, quản lý công ty lại tập trung vào các công cụ cần thiết để điều hành doanh nghiệp. Như vậy, quản trị công ty được đặt ở một tầm cao hơn nhằm đảm bảo rằng công ty sẽ được quản lý một cách hiệu quả và phục vụ lợi ích của các cổ đông.

Hoạt động quản trị công ty có các đặc điểm:

Thứ nhất, quản trị công ty được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa quản lý và sở hữu doanh nghiệp. Công ty là của chủ sở hữu (nhà đầu tư, cổ đông,…), nhưng để công ty tồn tại và phát triển thì cần có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của Ban Giám đốc, sự giám sát của Ban kiểm soát và sự đóng góp của người lao động. Những nhóm người ngày không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Điều này dẫn đến cần phải có một cơ chế để nhà đầu tư cũng như các cổ đông có thể kiểm soát được việc điều hành công ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.


Thứ hai, quản trị công ty xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các nhóm lợi ích, thành viên khác nhau trong công ty, bao gồm các cổ đông, HĐQT, Ban điều hành, Ban kiểm soát và những người liên quan khác của công ty như người lao động, nhà cung cấp. Đồng thời, quản trị công ty cũng lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra quyết định trong công ty, qua đó, ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với các bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc không có tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin và không minh bạch.

Những đặc điểm trên cho thấy, quản trị công ty có vai trò rất quan trọng đối với sự thành công của một doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, những công ty thực hiện tốt việc quản trị sẽ có khả năng tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn giá rẻ và thường đạt hiệu quả cao hơn các công ty khác.

Vai trò của quản trị công ty được thể hiện ở những mặt sau:

- Giúp thúc đẩy hoạt động và nâng cao hiệu quả kinh doanh: Theo Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC), quản trị công ty hiệu quả có thể giúp cải thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Việc cải tiến cách thức quản trị công ty sẽ mang lại một hệ thống giải trình tốt hơn, giảm thiểu rủi ro liên quan đến các vụ gian lận hoặc các giao dịch nhằm mục đích vụ lợi của các cán bộ quản lý. Bên cạnh đó, việc áp dụng những cách thức quản trị công ty có hiệu quả sẽ góp phần cải thiện và nâng cao hiệu quả ra quyết định của doanh nghiệp. Ngoài ra, một hệ thống quản trị công ty hiệu quả cũng đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, các tiêu chuẩn, quy chế, quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả các đối tượng liên quan.

- Giúp nâng cao khả năng tiếp cận thị trường vốn: Cách thức quản trị công ty có thể quyết định việc công ty dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn nhiều hay ít. Những công ty được quản trị tốt thường gây được thiện cảm đối với cổ đông và các nhà đầu tư, tạo dựng được niềm tin lớn hơn của công chúng vào việc công ty có khả năng sinh lời mà không xâm phạm tới quyền lợi của cổ đông.

- Giúp giảm chi phí vốn và tăng giá trị tài sản: Chi phí vốn phụ thuộc vào mức độ rủi ro của công ty theo cảm nhận của các nhà đầu tư, nghĩa là rủi ro càng cao thì chi phí vốn càng cao. Vì vậy, việc áp dụng hệ thống quản trị công ty tốt sẽ giúp công ty trả lãi suất thấp hơn và có được những khoản tín dụng có kỳ hạn dài hơn.

- Giúp nâng cao uy tín của công ty: Những biện pháp quản trị công ty hiệu quả sẽ góp phần làm nên và nâng cao uy tín của công ty. Lý do là để thực hiện quản trị


công ty tốt, các doanh nghiệp luôn phải tôn trọng quyền lợi của các cổ đông và các chủ nợ và việc đảm bảo tính minh bạch về tài chính sẽ được xem như là một trong những yếu tố quan trọng trong việc giành được niềm tin cho nhà đầu, từ đó nâng cao hình ảnh, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp.

2.3.1.2. Quản trị công ty trong ngân hàng thương mại

Theo IFC, quản trị công ty hiệu quả rất cần thiết để xây dựng và duy trì sự tín nhiệm và lòng tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Đây chính là những yếu tố cốt yếu cho sự vận hành lành mạnh của ngành ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Quản trị công ty yếu kém có thể dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng, gây nên những tổn thất kinh tế và xã hội cực kỳ nghiêm trọng do những ảnh hưởng tiêu cực lên hệ thống bảo hiểm tiền gửi, cũng như gây tác động lớn về kinh tế vĩ mô, ví dụ như rủi ro dây chuyền, làm ảnh hưởng xấu đến các hệ thống thanh toán. Điều này đã được minh chứng qua cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu giữa năm 2007. Ngoài ra, quản trị công ty yếu kém có thể khiến thị trường mất niềm tin vào khả năng quản lý hiệu quả tài sản và nợ phải trả của ngân hàng, kể cả tài sản tiền gửi. Điều này có thể châm ngòi cho việc rút tiền gửi đột biến và dẫn đến khủng hoảng khả năng thanh toán của ngân hàng. Thực tế, ngoài trách nhiệm với cổ đông, các ngân hàng còn có trách nhiệm với các khách hàng gửi tiền của mình và với các bên có quyền lợi liên quan khác. Hệ thống pháp lý và quản lý của một quốc gia quyết định trách nhiệm chính thức của ngân hàng đối với cổ đông, khách hàng gửi tiền và các bên có quyền lợi liên quan khác.

Đối với ngành ngân hàng, quản trị công ty liên quan đến sự phân định quyền hạn và trách nhiệm, có nghĩa là phương thức Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốc quản lý hoạt động kinh doanh và các vấn đề khác của ngân hàng, bao gồm:

- Xây dựng chiến lược và mục tiêu hoạt động của ngân hàng;

- Quyết định mức độ chấp nhận rủi ro/khẩu vị rủi ro của ngân hàng;

- Điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của ngân hàng;

- Bảo vệ lợi ích của khách hàng gửi tiền, đáp ứng nghĩa vụ cổ đông và quan tâm đến lợi ích của các bên có quyền lợi liên quan khác; và

- Đảm bảo hoạt động và ứng xử phù hợp với kỳ vọng ngân hàng sẽ vận hành an toàn, vững mạnh, trung thực và tuân thủ các luật lệ và quy định hiện hành.

Nhìn chung, chất lượng quản trị công ty trong ngân hàng được xem xét dựa trên bộ khung “Các nguyên tắc quản trị công ty của OECD”. Bộ nguyên tắc bao quát sáu


lĩnh vực: (i) Đảm bảo cơ sở cho một khuôn khổ quản trị công ty hiệu quả; (ii) Quyền của cổ đông và các chức năng sở hữu chính; (iii) Đối xử bình đẳng đối với cổ đông; (iv) Vai trò của các bên có quyền lợi liên quan; (v) Công bố thông tin và tính minh bạch; và

(vi) Trách nhiệm của Hội đồng Quản trị. Trong đó, luận án tập trung vào 4 nhóm: (i) Quyền và đại hội đồng cổ đông; (ii) Trách nhiệm của hội đồng quản trị; (iii) Ban kiểm soát; (iv) Công bố và minh bạch thông tin. Kết hợp với đó là bộ Các nguyên tắc tăng cường quản trị công ty đối với các tổ chức ngân hàng do Uỷ ban Basel về Giám sát ngân hàng đưa ra. Bộ nguyên tắc này tập trung vào những vấn đề cốt yếu của công tác quản trị ngân hàng, trong đó bao gồm nhưng không giới hạn bởi những nguyên tắc về nghĩa vụ của ngân hàng với cổ đông, khách hàng gửi tiền và các bên có quyền lợi liên quan khác.

2.3.2. Mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại

Trên thực tế, tác động đến hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng có vô cùng nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố bên trong và bên ngoài chủ thể đó. Trong phạm vi nghiên cứu này, NCS tập trung đánh giá mối liên hệ gắn liền với cấu trức sở hữu, đó chính là phương thức quản trị ngân hàng tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Theo Zhuang (1999) [125], cấu trúc sở hữu là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành hệ thống quản trị doanh nghiệp (Corporate Governance) tại bất cứ quốc gia nào. Điều này xuất phát từ thực tế sở hữu là nền tảng của vấn đề khác biệt giữa người chủ doanh nghiệp và người điều hành doanh nghiệp. Zhuang cho rằng có hai khía cạnh quan trọng của cơ cấu sở hữu của công ty là sự tập trung và thành phần của cơ cấu sở hữu. Theo ông, mức độ tập trung quyền sở hữu trong một công ty sẽ xác định cách thức quyền lực được phân phối giữa các cổ đông và các nhà quản lý doanh nghiệp. Khi sở hữu phân tán, kiểm soát của cổ đông có xu hướng yếu do động lực giám sát của cổ đông không nhiều. Thường một hoặc một vài nhóm cổ đông nhỏ sẽ ít có động lực tham gia vào tham gia giám sát hoạt động quản trị doanh nghiệp do những trở ngại của chi phí giám sát. Ngược lại, khi sở hữu của công ty tập trung, các cổ đông lớn sẽ đóng vai trò chủ động trong việc giám sát hoạt động. Tuy nhiên, trường hợp này lại làm nảy sinh vấn đề mâu thuẫn về lợi ích giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ lẻ, khi mà những quyết định của cổ đông lớn có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông nhỏ. Như vậy, sự gắn kết giữa quyền sở hữu và quản lý có vẻ như có thể đưa tới việc hạn chế mâu thuẫn về lợi ích và nâng cao giá trị


của doanh nghiệp (Holderness, 2009 [72]). Tuy nhiên, trong thực tế thì biểu hiện của mối quan hệ giữa chủ sở hữu, điều hành và giá trị công ty theo như lập luận này là tương đối phức tạp. Ví dụ như, khi người điều hành đồng thời là cổ đông thì những quyết định điều hành có thể gần với lợi ích của đa số cổ đông hơn. Nhưng nếu lợi ích của cổ đông và người quản lý khác nhau thì lúc này người quản lý với tư cách cũng là cổ đông của công ty sẽ ít bị can thiệp trong những quyết định của mình.

Hình 2.1: Cơ chế tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động ngân hàng


Nguồn Eric Ernest 2011 62 Các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm của Eric 1

Nguồn: Eric Ernest, 2011 [62]

Các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm của Eric Ernest (2011) [62] cũng đã chỉ ra sự tác động của cấu trúc sở hữu trong ngân hàng tác động đến hiệu quả hoạt động NHTM thông qua phương thức điều hành, quản trị công ty. Cụ thể, hình thức sở hữu Nhà nước, nước ngoài hay tư nhân,… ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, thành phần HĐQT doanh nghiệp, cơ chế lương thưởng, kiểm toán độc lập của một ngân hàng; từ đó tác động đến doanh thu, lợi nhuận, nợ vay… của NHTM đó.

Từ những phân tích trên đây có thể thấy rằng, cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng trong việc quyết định phương thức điều hành doanh nghiệp. Tới lượt mình, phương thức điều hành và quản trị công ty lại ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Theo Tandelilin và các cộng sự (2007) [111] thì quản trị doanh nghiệp tốt hơn sẽ dẫn đến hiệu suất cao hơn. Điều này được thể hiện trong mô hình tam giác về quản trị công ty trong ngân hàng. Mô hình tập trung tìm hiểu mối quan hệ giữa quản trị công ty trong ngân hàng với quản trị rủi ro và hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trong đó, mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động của ngân hàng được chỉ ra khi các nhà quản lý và chủ sở hữu của ngân hàng thể hiện sự nỗ lực trong việc thực thi tốt hoạt động quản trị ngân hàng sẽ giúp nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường, từ đó có thể huy động vốn với chi phí và rủi ro thấp hơn, dẫn đến hiệu quả hoạt động cao hơn.


Hình 2.2: Mô hình tam giác về quản trị công ty trong NHTM


Sở hữu

Quản trị công ty

Quản trị rủi ro

Hiệu quả

hoạt động

Nguồn: Tandelillin và cộng sự (2007) [111] Một số nghiên cứu thực nghiệm cũng đã khẳng định luận điểm về quản trị NHTM tốt sẽ dẫn đến hiệu quả hoạt động cao. Nghiên cứu của Klapper và Love (2003) [76] sử dụng dữ liệu từ 14 thị trường mới nổi đã đưa ra kết luận quản trị NHTM tốt có liên quan mật thiết với hiệu quả hoạt động và giá trị thị trường cao. La Porta và các cộng sự (2002) [80] khi nghiên cứu hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp từ 27 nước phát triển, kết quả cho thấy giá trị cao hơn của các công ty tại quốc gia có sự bảo vệ tốt hơn đối với các cổ đông thiểu số. Tương tự, Coleman (2007) [52] đã tiến hành khảo sát khu vực châu Phi dựa trên mẫu gồm 103 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Ghana, Nigeria, Kenya, Nam Phi. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng HĐQT gồm nhiều thành viên và độc lập góp phần nâng cao giá trị công ty, trong khi nếu Giám đốc điều hành tham gia HĐQT sẽ có tác động tiêu cực đến hiệu suất công ty. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng quy mô HĐQT lớn hơn thường sử dụng nhiều hơn khoản nợ, trong khi tính độc lập của HĐQT có quan hệ ngược chiều đáng kể đối với các khoản nợ ngắn hạn. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng khuyến cáo rằng quy mô của Ủy ban kiểm toán và tần số các cuộc họp của họ có ảnh hưởng tích cực đối với các chỉ tiêu thị trường đo lường hiệu quả hoạt động của công ty, qua đó tăng cường giá

trị thị trường của các công ty (Coleman, 2007, [52]).

Berger và cộng sự (2013)[40] đã nghiên cứu và phân tích vai trò của quản trị công ty bao gồm cấu trúc sở hữu và cấu trúc quản trị trong các ngân hàng phá sản tại Mỹ trên mẫu gồm 85 ngân hàng đã phá sản và 256 ngân hàng vẫn còn hoạt động ở Mỹ trong khoảng thời gian từ Quý I/2007 – Quý III/2010. Các tác giả đã sử dụng 5 nhóm biến giải thích trong mô hình hồi quy đa biến (Logit), trong đó, cấu trúc sở hữu và cấu


trúc quản trị được tính chung là một biến. Các biến còn lại là biến kế toán; chỉ số đo lường cạnh tranh thị trường; chỉ số kinh tế nhà nước; các biến điều chỉnh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có biến kế toán giúp dự đoán sự phá sản của ngân hàng. Đặc biệt, nghiên cứu còn chỉ ra một yếu tố dự báo quan trọng khác là tỷ lệ sở hữu cổ phần của người không trực thuộc ngân hàng có ảnh hưởng đến khả năng bị phá sản. Một người có thứ bậc quản lý thấp nếu sở hữu một tỷ trọng lớn cổ phiếu hơn sẽ làm tăng đáng kể khả năng phá sản của ngân hàng, trong khi thành viên độc lập của HĐQT và trưởng phòng lại không ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vỡ nợ của ngân hàng.

Kumar Singh và cộng sự (2013)[96] đã đánh giá các công trình nghiên cứu trước đó về thất bại trọng QTCT của các tổ chức tài chính trong cuộc khủng hoảng toàn cầu. Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng những yếu kém trong quản trị rủi ro, cơ cấu của HĐQT, hệ thống tiền lương, tính minh bạch, và việc công bố các thông tin đã dẫn tới phá sản doanh nghiệp.

Nghiên cứu tại các ngân hàng quốc tế lớn của Andres và Vallelado (2008)[101] cho thấy có mối quan hệ giữa thành phần và quy mô HĐQT với kết quả kinh doanh của ngân hàng. HĐQT càng có nhiều thành viên, khả năng giám sát của HĐQT và kết quả kinh doanh của ngân hàng càng tốt. Tuy nhiên, việc có quá nhiều thành viên độc lập cũng có thể ảnh hưởng xấu tới hiệu quả hoạt động của HĐQT do thời gian để đưa ra các quyết định là lâu hơn. Trong khi đó, Jensen và Mecking (1976) [64] lại cho rằng, hiệu quả hoạt động của ngân hàng chịu ảnh hưởng bởi quản trị công ty thông qua chi phí người đại diện.

Đối với trường hợp của các NHTM tại Việt Nam, nghiên cứu của Trần, Nguyễn, Phạm (2014) [113] đã chỉ ra mối liên hệ thuận chiều giữa CGI – chỉ số đánh giá năng lực quản trị công ty trong ngân hàng – tới kết quả hoạt động của các NHTM Việt Nam, được đo lường bởi cả tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


Trong chương này, những vấn đề lý luận chủ yếu về tác động của cấu trúc sở hữu tới hiệu quả hoạt động ngân hàng đã được luận giải. Phần đầu tiên của chương là tổng quan về cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Phần tiếp theo các vấn đề liên quan tới cấu trúc sở hữu như khái niệm, các hình thức sở hữu trong ngân hàng cũng như các tác động tích cực và tiêu cực của cấu trúc sở hữu (sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu nước ngoài và sở hữu chéo, sở hữu tập trung) của ngân hàng cũng đã được trình bày cụ thể. Phần cuối cùng của chương, cơ chế tác động của sở hữu đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng được lý giải thông qua cơ sở lý luận về hoạt động quản trị công ty trong ngân hàng.


CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


3.1. CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CẤU TRÚC SỞ HỮU TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

Hệ thống chính sách về sở hữu và quản lý Nhà nước trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được ban hành và hoàn thiện tương đối trong thời gian qua. Trong đó, các quy định chính được tóm lược theo sơ đồ sau:


Quy định chung về sở hữu

Luật các TCTD 2010, điều 55

Sở hữu giữa các NHTM

Luật các TCTD, điều 103

Sở hữu chéo trong NHTM

QUY ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ CẤU TRÚC SỞ

Luật các TCTD, điều 129 và

135, Thông tư 36/2014-NHNN

Sở hữu cổ phần của NĐT nước ngoài Luật các TCTD; Nghị định

01/2014/NĐ-CP

CPH

Nghị định số 59/2011; Thông

tư số 10/2011/TT-NHNN

Đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại

NHTM

Luật NHNN 2010, Điều 4; Nghị định số 99/2012/NĐ-CP;

Quyết định số 931/QĐ-NHNN

3.1.1. Quy định chung về vấn đề sở hữu trong ngân hàng thương mại

Trước năm 2010, hệ thống NHTM hoạt động theo Luật các TCTD năm 1997. Về cơ bản, Luật các TCTD năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD số 20/2004/QH11 đã có nhiều điểm mới và hoàn thiện hơn so với Pháp lệnh Ngân hàng 1990, cho phép hình thành đa dạng hơn các thành phần sở hữu tại các


TCTD Việt Nam. Cụ thể, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD số 20/2004/QH11 quy định “TCTD nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của TCTD hoạt động tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ”. Bên cạnh đó, đề án cơ cấu lại các NHTMNN đã được thực hiện với Vietcombank là ngân hàng CPH đầu tiên vào năm 2005 đã làm giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước, tăng tỷ lệ sở hữu tư nhân trong hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên những quy định này vẫn chưa chặt chẽ và đã tạo điều kiện cho các ngân hàng mua cổ phần của ngân hàng và TCTD khác qua nhiều hình thức, mang lại nhiều rủi ro tiềm ẩn.

Đến năm 2010, Luật các TCTD năm 2010 được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2010, thay thế Luật các TCTD số 02/1997/QH10 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD số 20/2004/QH11 đã có những quy định cụ thể và chặt chẽ hơn về vấn đề sở hữu trong NHTM.

Theo điều 55, Luật các TCTD năm 2010 thay đổi mức giới hạn sở hữu cổ phần của TCTD đối với cổ đông là cá nhân từ 10% xuống 5%; cổ đông là pháp nhân từ 20% xuống 15% (trừ trường hợp sở hữu cổ phần theo quyết định của NHNN để xử lý TCTD gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống TCTD; sở hữu cổ phần Nhà nước tại các TCTD CPH; sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài). Cổ đông và những người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD. Các tỷ lệ sở hữu nêu trên bao gồm cả phần vốn uỷ thác cho các tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần.

Ngoài ra, Luật các TCTD năm 2010 cũng đã thay đổi quy định về cổ đông lớn của TCTD, theo đó cổ đông lớn của TCTD cổ phần là cổ đông sở hữu trực tiếp, gián tiếp từ 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết trở lên của TCTD cổ phần đó, giảm so với mức 10% quy định trong Luật các TCTD 1997.

3.1.2. Quy định về sở hữu của ngân hàng thương mại này trong ngân hàng thương mại khác

Nhìn chung, việc sở hữu của một NHTM trong NHTM khác là được phép theo quy định của luật Việt Nam. Cụ thể, Điều 69 Luật các TCTD năm 1997 quy định: “TCTD được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp và các TCTD khác theo quy định của pháp luật”. Điều 80 quy định “Mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD trong một doanh nghiệp, tổng mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD trong tất cả các doanh nghiệp không được vượt quá mức tối đa do Thống


đốc NHNN quy định đối với từng loại hình TCTD”. Như vậy, quy định của Luật các TCTD năm 1997 về góp vốn mua cổ phần và giới hạn mức góp vốn mua cổ phần của TCTD trong TCTD khác là khá chung chung khi chỉ quy định là “theo quy định của pháp luật” hay “do Thống đốc NHNN quy định”.

Luật các TCTD năm 2010 đã có những quy định cụ thể và chặt chẽ hơn về vấn đề này. Theo điều 103 Luật các TCTD năm 2010, NHTM chỉ được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp khác theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 6 Điều này. Khoản 6, Điều 103 cũng đã cho phép “NHTM, công ty con của NHTM được mua, nắm giữ cổ phiếu của TCTD khác với điều kiện và trong giới hạn quy định của NHNN”.

Về vấn đề giới hạn góp vốn, mua cổ phần, Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ban hành ngày 20/5/2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD đã quy định một số nội dung cụ thể liên quan đến sở hữu giữa các TCTD. Các quy định này đã làm rõ hơn về tỷ lệ sở hữu của một TCTD tại một TCTD khác và giới hạn mức vốn điều lệ được phép sử dụng để góp vốn, mua cổ phần của một TCTD. Cụ thể theo Khoản 1 Điều 16 Thông tư số 13/2010/TT-NHNN: “Mức góp vốn mua cổ phần của TCTD trong một… TCTD khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của… TCTD khác đó, trừ trường hợp góp vốn, mua cổ phần thành lập công ty trực thuộc theo quy định của pháp luật.” “Tổng mức góp vốn mua cổ phần của TCTD và các công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết của TCTD trong cùng một… TCTD khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của… TCTD khác đó”. Các quy định này cũng được quy định chặt chẽ trong Thông tư 36/2014/TT-NHNN thay thế thông tư 13/2010TT-NHNN. Ngoài ra, Thông tư 36/2014/TT-NHNN còn có thêm một số nội dung về các giới hạn sở hữu cổ phần lẫn nhan như: ”Ngân hàng thương mại chỉ được mua, nắm giữ cổ phiếu tối đa không quá hai (02) tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp tổ chức tín dụng khác là công ty con của ngân hàng thương mại đó” hay “Ngân hàng thương mại chỉ được mua, nắm giữ cổ phiếu của một tổ chức tín dụng khác dưới 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết của tổ chức tín dụng khác đó”.

Tiếp theo đó, Luật các TCTD được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2010 đã luật hóa các quy định này trong điều 129 về Giới hạn góp vốn, mua cổ phần. Theo đó, mức góp vốn, mua cổ phần của một NHTM và các công ty con, công ty liên kết


của NHTM đó vào một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực được quy định tại Khoản 4 Điều 103 của Luật không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp và “tổng mức góp vốn, mua cổ phần của một NHTM vào các doanh nghiệp, kể cả các công ty con, công ty liên kết của NHTM đó không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của NHTM”. Trong khi đó, tổng mức góp vốn, mua cổ phần của một công ty tài chính không được vượt quá 60% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của công ty tài chính. Trong các quy định này, tỷ lệ giới hạn góp vốn, mua cổ phần của các TCTD được tính trên cơ sở hợp nhất (bao gồm cả phần góp vốn, mua cổ phần của công ty con, công ty liên kết theo tỷ lệ sở hữu tương ứng).

3.1.3. Quy định về sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại

Luật các TCTD năm 2010 đã có những quy định chặt chẽ đối với hoạt động sở hữu chéo giữa các TCTD, các công ty con, công ty liên kết và công ty kiểm soát tại Điều 129 và Điều 135. Theo đó, Luật đã cấm sở hữu chéo khi quy định rằng “TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính TCTD đó” (Khoản 5 Điều 129); “công ty con, công ty liên kết của cùng một công ty kiểm soát không được góp vốn, mua cổ phần của nhau” (Khoản 1, Điều 135); “công ty con, công ty liên kết của một TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của chính TCTD đó” (Khoản 2, điều 135); “TCTD đang là công ty con, công ty liên kết của công ty kiểm soát không được góp vốn, mua cổ phần của công ty kiểm soát đó” (khoản 3 điều 135).

Tuy nhiên do yếu tố lịch sử, trên thực tế hiện vẫn còn một số TCTD góp vốn tại nhiều TCTD khác hoặc có sở hữu cổ phần lẫn nhau (các hiện tượng này xảy ra từ trước khi Luật các TCTD năm 2010 có hiệu lực) hoặc có một số trường hợp TCTD thông qua các công ty con của mình sở hữu cổ phần của TCTD khác hoặc cổ đông sở hữu cổ phần của TCTD thông qua vốn vay của TCTD hoặc doanh nghiệp khác.

3.1.4. Quy định về việc sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD số 20/2004/QH11 đã cho phép “TCTD nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của TCTD hoạt động tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ”. Đến nay, việc sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại NHTM Việt Nam được thực hiện theo các quy định trong Luật các TCTD năm 2010 và Nghị định số 01/2014/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam (thay thế Nghị định số 69/2007/NĐ-CP Về việc

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí