Berger và cộng sự (2007) [42] khi thực hiện nghiên cứu tại các quốc gia Đông Á trong đó có Việt Nam nhận định rằng, với sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, những hoạt động liên quan đến điều hành, chuyển giao công nghệ và dịch vụ từ phía họ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trong nước. Tuy nhiên, cũng giống như các nước khác, quá trình này phải mất một thời gian mới có thể đem lại những hiệu ứng tích cực do ban đầu, họ sẽ khai thác vào những điểm yếu và những khu vực không chịu sự cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng nội địa (Clarke và cộng sự, 2001 [51]). Hơn nữa, với tỷ lệ tham gia của Chính phủ vào các ngân hàng lớn cũng như hệ thống pháp luật và trình độ phát triển của hệ thống tài chính còn nhiều hạn chế như ở Việt Nam, đây có thể sẽ là một rào cản cho quá trình tham gia và phát huy hiệu quả của các ngân hàng có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, xu hướng tất yếu của quá trình cổ phần hóa hệ thống ngân hàng và sự phát triển của thị trường tài chính trong tương lai sẽ đem lại những kỳ vọng về vai trò của sở hữu nước ngoài tại các NHTM Việt Nam.
Nghiên cứu của Ngo (2012) [97] dựa trên số liệu của các ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2010 chỉ ra năng suất của các ngân hàng có xu hướng giảm khi mà số lượng các ngân hàng và quy mô của thị trường tài chính tăng lên. Điều này là phù hợp với thực tế của Việt Nam giai đoạn vừa qua. Các NHTM nhà nước nói riêng, các NHTM nói chung đang gặp phải những vấn đề liên quan đến nợ xấu do cấp tín dụng dễ dãi cho các doanh nghiệp, mà chủ yếu là các DNNN. Trong số đó, rất nhiều doanh nghiệp đã phải đối mặt với khó khăn do đầu tư tràn lan, đầu tư ngoài ngành kém hiệu quả, tập trung vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Đứng trước tình hình đó, NHNN đã thực hiện rất nhiều các biện pháp nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu, ban hành các văn bản pháp quy về vấn đề phân loại và trích lập dự phòng, tiến hành thoái vốn khỏi các NHTM của các DNNN, và việc thành lập công ty mua bán nợ quốc gia VAMC là một trong số đó đã bước đầu mang lại những hiệu ứng tích cực. Tuy nhiên, hơn hết, các ngân hàng cần tiến hành tái cơ cấu một cách toàn diện, cả về cấu trúc sở hữu và công tác quản trị. Nghiên cứu của Scholtens năm 2000 [107] đã cho thấy bằng chứng về việc các ngân hàng quốc doanh sau khi tư nhân hóa, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài sẽ hoạt động hiệu quả và an toàn hơn, trong đó có Việt Nam.
Trong nghiên cứu “Cấu trúc sở hữu trong ngân hàng thương mại Việt Nam”, Nguyễn Đức Mậu và Nguyễn Xuân Thành (2012)[13] đã chỉ ra mối quan hệ sở hữu
trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, đó là sở hữu giữa hai ngân hàng thương mại và sở hữu giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Ngoài ra, tác giả đã làm rõ nhiều vấn đề liên quan đến lợi thế của việc sở hữu chéo trong ngân hàng cũng như tác động của cấu trúc sở hữu đến việc chấp hành các quy định về đảm bảo an toàn vốn cho hoạt động của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chủ yếu dừng lại ở việc mô tả và thống kê số liệu về tỷ lệ sở hữu ở các ngân hàng, nhưng chưa có được những phân tích về tác động thực sự của cơ cấu đó đến các quyết định tài trợ và đầu tư cũng như hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
Nghiên cứu của tác giả Phạm Hoàng Ân và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2013)[21] được thực hiện nhằm phân tích các yếu tố quyết định đến thu nhập lãi cận biên (NIM) của các NHTM ở Việt Nam với sự nhấn mạnh đặc biệt về loại hình sở hữu của ngân hàng. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp của 30 NHTM với 150 quan sát trong giai đoạn 2008 – 2012 và áp dụng phân tích hồi quy dữ liệu bảng với phương pháp bình phương bé nhất tổng quát khả thi (Feasible General Least Square – FGLS) để ước lượng các hệ số hồi quy. Kết quả thực nghiệm cho thấy có sự tác động của loại hình sở hữu đến thu nhập lãi cận biên của ngân hàng, các NHTMCP tư nhân có tỷ lệ này cao hơn khi so sánh với các NHTM có cổ phần nhà nước chi phối. Đồng thời, quy mô hoạt động cho vay, chi phí hoạt động, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, tỷ lệ vốn chủ sở hữu có tương quan dương và có ý nghĩa thống kê với thu nhập lãi cận biên của ngân hàng.
Tác giả Trương Quốc Cường và cộng sự năm 2013 [26] nghiên cứu một vấn đề khá đặc biệt của sở hữu trong hệ thống ngân hàng là hiện tượng sở hữu chéo. Đề tài nghiên cứu khoa học của ngành ngân hàng“Vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống NHTM Việt Nam: Thực trạng, hệ lụy và giải pháp” đã tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cùng kinh nghiệm thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp định hướng, quản lý và kiểm soát tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống các TCTD Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu, sở hữu chéo là một vấn đề mang thuộc tính khách quan cùng sự phát triển của một nền kinh tế mà vốn dựa vào tín dụng ngân hàng. Kinh nghiệm ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy sự tồn tại của sở hữu chéo đã tạo nên tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn dài. Tuy nhiên, những hệ lụy từ sở hữu chéo tới rủi ro của hệ thống tài chính là không nhỏ khi mà sở hữu chéo có thể thúc đẩy cho hoạt động cho vay, đầu tư thiếu minh bạch, làm tăng rủi ro đạo đức từ phía người sử dụng
vốn. Chính hiện tượng sở hữu này là nguyên nhân gây ra nhiều tác động tiêu cực đến hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian qua.
Có thể bạn quan tâm!
- Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 1
- Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Tác Động Của Cấu Trúc Sở Hữu Tới Hiệu Quả Hoạt Động Của Doanh Nghiệp
- Tác Động Của Cấu Trúc Sở Hữu Tới Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại
- Mối Liên Hệ Giữa Cấu Trúc Sở Hữu, Quản Trị Công Ty Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.
Trong nghiên cứu của mình năm 2013, các tác giả Nguyễn Hồng Sơn và cộng sự [15] đã nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tái cơ cấu. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ tập trung vốn chủ sở hữu và tỷ lệ sở hữu tư nhân có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lời của các NHTM. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu có tác động tiêu cực đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng thống nhất với các nghiên cứu trước về tác động cùng chiều của quản trị công ty đến khả năng sinh lời của các NHTM. Các phát hiện về tác động của cấu trúc sở hữu và quản trị công ty đến khả năng sinh lời của các NHTM ở Việt Nam trong nghiên cứu này có nhiều tương đồng với các kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về tác động của cấu trúc sở hữu và quản trị công ty đến khả năng sinh lời của các NHTM ở Kenya, Trung Quốc, Malaysia (Rokwaro, 2013 [104], Wen, 2010 [119]). Từ các kết quả trên, một số gợi ý chính sách đã được đưa ra, bao gồm: (i) Khuyến khích các cổ đông lớn tham gia hội đồng quản trị (HĐQT) nhằm giảm mâu thuẫn lợi ích trong các NHTM; (ii) Khuyến khích tăng cường sở hữu tư nhân trong các NHTM nhằm tăng khả năng sinh lời; (iii) Thúc đẩy cải thiện quản trị công ty trong các NHTM theo thông lệ quốc tế và;(iv) Đẩy mạnh xử lý nợ xấu trong quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam. Đối với nghiên cứu về tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động được đánh giá thông qua mô hình kinh tế lượng tuy nhiên việc áp dụng các kỹ thuật kinh tế lượng còn khá đơn giản và chưa đặc trưng cho mô hình dữ liệu mảng. Ngoài ra, nhân tố chịu ảnh hưởng được xét đến ở đây chỉ có các chỉ số về khả năng sinh lời của ngân hàng như ROA, ROE.
Đề tài nghiên cứu “Mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các NHTM nhà nước và NHTM do nhà nước giữ cổ phần chi phối (thực trạng, xu hướng và định hướng điều chỉnh)” của tác giả Kiều Hữu Thiện và nhóm nghiên cứu Học viện Ngân hàng (năm 2014) [10] đã thực hiện nghiên cứu khá toàn diện về tác động của sở hữu nhà nước đến hiệu quả hoạt động của các NHTM nhà nước có cổ phần chi phối. Bằng phương pháp định tính và định lượng, đề tài đã chứng minh được mối liên hệ giữa hình thức sở hữu và hiệu quả hoạt động của các NHTMNN và NHTM do nhà nước giữ cổ phần chi phối. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động
cũng như kết quả từ mô hình kinh tế lượng chỉ ra các NHTMNN và NHTM do nhà nước giữ cổ phần chưa đạt được hiệu quả kỳ vọng. Thêm vào đó, dù các NHTM có sở hữu nhà nước luôn có những ưu điểm nhất định như đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, có tốc độ tăng trưởng tổng tài sản và tín dụng ổn định hơn so với các nhóm ngân hàng còn lại, … nhưng vấn đề còn tồn tại của các ngân hàng này cũng rất lớn như ra sự thiếu rạch ròi giữa chức năng kinh doanh tiền tệ của các NHTMNN và chức năng quản lý tiền tệ của NHNN, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cao, rủi ro đạo đức lớn hơn so với các NHTMCP do không tách bạch được quyền sở hữu và quyền giám sát. Như vậy một khoảng trống mà nghiên cứu này chưa đề cập đến đó là tác động của sở hữu nước ngoài, sở hữu tư nhân cũng như lý giải cơ chế tác động của sở hữu đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
Bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa loại hình sở hữu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam của tác giả Trần Phương Thảo và Lê Nguyễn Quỳnh Phương thực hiện năm 2016 [23] cũng là một nghiên cứu tập trung về vai trò sở hữu nước ngoài trong các NHTM Việt Nam. Các tác giả đã sử dụng phương pháp DEA và SFA trong việc đo lường hiệu quả hoạt động NHTM và hồi quy Tobit 2 bước để tìm hiểu mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động và loại hình sở hữu NHTM. Kết quả nghiên cứu đối với 22 NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2007-2014 phù hợp với lý thuyết về quản trị ngân hàng và minh chứng loại hình sở hữu khác nhau có ảnh hưởng đến hiệu suất hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó, nghiên cứu kiểm định giả thuyết "lợi thế sân nhà” (home field advantage hypothesis) và “lợi thế nước ngoài” (global advantage hypothesis) nhưng không tìm thấy bằng chứng về sự tồn tại các giả thuyết này trong lĩnh vực ngân hàng Việt Nam.
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy vấn đề cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cấu trúc sở hữu có tác động quyết định đến cơ cấu và bộ máy quản trị, từ đó ảnh hướng đến lợi nhuận, chi phí, tính thanh khoản… của ngân hàng. Nghiên cứu mối quan hệ này là cơ sở cho những nhận định và đánh giá về thực trạng và ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả của NHTM tại Việt Nam.
1.2. KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU
Trước yêu cầu cấp thiết về nghiên cứu cơ cấu sở hữu trong mối quan hệ với hiệu quả hoạt động của ngân hàng, các nghiên cứu trong nước và quốc tế như đã phân tích trên đây vẫn tồn tại một số khoảng trống nghiên cứu lớn như sau:
Một là, ở các nước phát triển, các nghiên cứu đã được thực hiện từ nhiều nhóm cấu trúc sở hữu khác nhau như sở hữu tư nhân, sở hữu nhà nước và nước ngoài, sở hữu nội bộ, sở hữu của Ban quản trị, sở hữu của các công ty gia đình, sở hữu tổ chức, sở hữu nhiều thành phần khác nhau,…và kết quả của các nghiên cứu này cho các kết luận khác nhau, Tuy nhiên phần lớn các nghiên cứu này tập trung vào nghiên cứu tổng thể các doanh nghiệp niêm yết, ít nghiên cứu thể hiên các doanh nghiệp trong ngành cụ thể là ngành ngân hàng. Bên cạnh đó, đặc thù của ngân hàng ở các nước này đó là cấu trúc sở hữu được phân tán, hoặc chi phối với số vốn Nhà nước tham gia thấp, khác với hệ thống ngân hàng Việt Nam khi mà vai trò của sở hữu nhà nước vẫn còn rất quan trọng. Hai là, chủ đề cấu trúc sở hữu và tác động đến hiệu quả hoạt động đã được nghiên cứu ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển hay các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi tương tự như Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu về vấn đề này trong bối cảnh hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn chưa được thực hiện một cách chi tiết dưới dạng một luận án. Các nghiên cứu về đề tài này đối với thị trường tài chính Việt Nam chưa có nhiều, nhìn chung được thực hiện trong tập hợp nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á hơn là cho riêng hệ thống ngân hàng Việt Nam (Cornett và cộng sự, 2009, [50]). Trong nghiên cứu của mình, Cornett và cộng sự (2009) [50] đã sử dụng dữ liệu của 16 quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam và đi đến kết luận là các ngân hàng do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối hoạt động kém hiệu quả và tiềm ẩn nhiều rủi ro tín dụng hơn so với các NHTMCP. Ngoài
ra, một số nghiên cứu khác về vấn đề này tại Việt Nam có thể kể đến là:
Kiều Hữu Thiện và cộng sự, 2014, [10] Mối liên hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các NHTM nhà nước và NHTM do nhà nước giữ cổ phần chi phối (thực trạng, xu hướng và định hướng điều chỉnh).
Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Thanh Tú, Đinh Xuân Cường, Lại Anh Ngọc, Phạm Bảo Khánh, 2013 [15]. Tác động của cấu trúc sở hữu đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam trong bối cảnh tái cơ cấu.
Nhìn chung, các nghiên cứu này được trình bày dưới dạng bài báo khoa học đăng tạp chí, chưa đi sâu phân tích cơ sở lý thuyết, thực trạng về tác động của cấu trúc sở hữu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là việc gắn sở hữu với hoạt động quản trị công ty. Hơn nữa, các nghiên cứu trên chưa đưa ra được các định hướng điều chỉnh về cấu trúc sở hữu trong tương lai. Điều này làm phát sinh một khoảng trống trong nội dung nghiên cứu đối với trường hợp của các NHTM Việt Nam.
Ba là, việc vận dụng các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam trong chủ đề này vẫn còn hạn chế. Cụ thể một số nghiên cứu ở Việt Nam đã ứng dụng các nghiên cứu trước ở trên thế giới như sử dụng phương pháp đơn giản trong định lượng đó là việc sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) để đo lường sự ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu, hoặc là sử dụng kỹ thuật nghiên cứu định lượng cho dữ liệu bảng với khoảng thời gian tương đối ngắn. Trong nghiên cứu định lượng ở trên thế giới, các nhà phân tích thường xuyên sử dụng phân tích dữ liệu mảng không cân bằng với khoảng thời gian từ 5 năm trở lên nhằm khắc phục các nhược điểm về thu nhập cũng như sử lý số liệu. Đồng thời, kết quả nghiên cứu trong thời gian dài sẽ thuyết phục hơn.
Bốn là, các nghiên cứu cả trong và ngoài nước đã có sự nghiên cứu về tác động của các hình thức sở hữu, cơ cấu sở hữu đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại dựa trên mô hình kinh tế lượng. Các kết quả nghiên cứu này thường chỉ ra mối liên hệ có ý nghĩa giữa sở hữu và hiệu quả hoạt động, ví dụ như sở hữu nhà nước có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả ngân hàng trong khi gia tăng sở hữu tư nhân thông qua cổ phần hóa hay tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài có ảnh hưởng tích cực. Tuy nhiên, gần như rất ít nghiên cứu lý giải cơ chế đằng sau là tại sao lại có kết quả như vậy. Nghiên cứu này của nghiên cứu sinh sẽ cố gắng lý giải cơ chế tác động của sở hữu đến hiệu quả hoạt động thông qua vai trò của quản trị công ty trong các ngân hàng Việt Nam. Sở hữu quyết định cách thức quản trị và cách thức quản trị đến lượt mình lại quyết định hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Đây chính là một điểm mới quan trọng của nghiên cứu này.
Năm là, trong tình hình thực tế hiện nay, việc tái cấu trúc là hết sức cần thiết đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Kết quả dự kiến của nghiên cứu sẽ là khuyến nghị cho các cơ quan quản lý và các ngân hàng thương mại về cách thức xác định cấu trúc sở hữu phù hợp, góp phần gia tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Tóm lại, so với các nghiên cứu tại các quốc gia phát triển và các nước đang mới nổi điển hình như Trung Quốc hay các quốc gia Đông Nam Á, các nghiên cứu về tác động của cấu trúc sở hữu tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng ở Việt Nam hiện vẫn còn tương đối sơ khai và chỉ nghiên cứu các khía cạnh nhỏ trong bức tranh tổng thể về cấu trúc sở hữu, những vấn đề vẫn chưa được các nhà nghiên cứu trong nước đề cập:
- Cấu trúc sở hữu bao gồm các loại hình sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu nước ngoài có mối quan hệ như thế nào tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng?
- Cơ chế đằng sau tác động tới mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thông qua hoạt động quả trị công ty là gì?
- Cần có những giải pháp gì về vấn đề sở hữu và quản trị công ty để nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay?
Các câu hỏi nghiên cứu trên sẽ được trả lời dựa trên các cơ sở khoa học chặt chẽ cùng với các dữ liệu thực tế về các ngân hàng thương mại Việt Nam. Đồng thời những kết luận đưa ra cũng được chứng minh bằng phương pháp định lượng tin cậy trên cơ sở rút ra từ sự thành công của các nghiên cứu trước đó.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận án đã tổng kết những nghiên cứu nổi bật về chủ để tác động của cấu trúc sở hữu đến hiêu quả hoạt động của ngân hàng – một loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế. Các nghiên cứu này được trình bày đi từ những nghiên cứu cơ sở ngành về tác động của sở hữu đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung cho đến những nghiên cứu trong lĩnh vực ngân hàng tại các quốc gia phát triển, các thị trường mới nổi và Việt Nam. Chủ đề cấu trúc sở hữu và tác động đến hiệu quả hoạt động đã được nghiên cứu ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển hay các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi tương tự như Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề này trong bối cảnh hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn chưa có nhiều và được thực hiện một cách toàn diện. Khoảng trống nghiên cứu đó đã làm xuất hiện các câu hỏi nghiên cứu sẽ được giải quyết trong các chương tiếp theo của luận án này
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC SỞ HỮU TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
2.1.1. Cấu trúc sở hữu trong doanh nghiệp
Bất kể một doanh nghiệp nào thành lập cũng đều phải có một lượng vốn điều lệ nhất định và việc số vốn điều lệ đó được hình thành từ đâu, hình thành như thế nào tạo nên cấu trúc sở hữu của chính doanh nghiệp đó. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể hiểu cấu trúc sở hữu trong doanh nghiệp là cơ cấu phản ánh tổng thể các mối quan hệ chiếm hữu đối với các phần của vốn chủ sở hữu, từ đó quyết định đến các mối quan hệ khác trong sản xuất và quan hệ phân phối các sản phẩm cũng như những lợi ích kinh tế mà việc sản xuất, kinh doanh từ nguồn vốn chủ sở hữu đó đem lại.
Từ định nghĩa nêu trên làm xuất hiện một vấn đề này sinh đối với sở hữu trong doanh nghiệp đó là doanh nghiệp có sở hữu tập trung hay phân tán. Với mỗi đặc điểm sở hữu tập trung hay phân tán lại quyết định rất lớn đến cấu trúc quản trị điều hành về sau của doanh nghiệp.
Trong cấu trúc sở hữu tập trung, cả quyền sở hữu lẫn quyền kiểm soát công ty tập trung vào tay một số cá nhân, gia đình, ban quản lý, hoặc các định chế cho vay. Những cá nhân và nhóm này thường kiểm soát và chi phối lớn đến cách thức công ty vận hành. Bởi vậy, cấu trúc tập trung thường được xem là hệ thống nội bộ. Những cổ đông lớn kiểm soát doanh nghiệp trực tiếp bằng cách tham gia HĐQT và ban điều hành. Cổ đông lớn có thể không sở hữu vốn toàn bộ nhưng có quyền biểu quyết đáng kể nên vẫn có thể được kiểm soát doanh nghiệp.
Với cấu trúc sở hữu tập trung, doanh nghiệp do những người bên trong kiểm soát có những điểm thuận lợi nhất định. Những người này có quyền lực và động lực để kiểm soát doanh nghiệp chặt chẽ, nhờ đó giảm thiểu được tình trạng sai phạm hay gian dối trong quản trị và điều hành. Hơn nữa, do nắm quyền sở hữu và quyền kiểm soát lớn, những người này có khuynh hướng giữ vốn đầu tư trong doanh nghiệp trong thời gian dài. Vì thế họ sẽ ủng hộ những quyết định giúp tăng cường hiệu quả hoạt động dài hạn hơn là những quyết định mang lại lợi ích ngắn hạn.
Tuy nhiên, hệ thống này cũng dẫn doanh nghiệp đến những thất bại trong quản trị. Khi những người điều hành là các cổ đông lớn hay có quyền biểu quyết lớn, họ có thể dùng quyền của mình để tác động đến quyết định của HĐQT nhằm mục đích tư lợi. Một trường hợp phổ biến là các nhà quản lý thuyết phục HĐQT trả lương và phúc lợi rất cao cho cấp quản lý hoặc phê duyệt việc mua bán yếu tố đầu vào giá cao từ các công ty mà họ có sở hữu hoặc có mối quan hệ. Nghiêm trọng hơn, họ có thể sử dụng những thông tin bí mật để trục lợi như giao dịch nội gián. Chính điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, mà nguyên nhân xuất phát là quá trình quản trị doanh nghiệp.
Trong cấu trúc sở hữu phân tán, doanh nghiệp có nhiều cổ đông, mỗi cổ đông sở hữu một số cổ phần doanh nghiệp, quyền kiểm soát hoạt động công ty do ban Giám đốc nắm giữ. Các cổ đông nhỏ ít có động lực để kiểm tra chặt chẽ hoạt động và không muốn tham gia điều hành công ty. Bởi vậy họ được gọi là người bên ngoài và cấu trúc phân tán còn được gọi là hệ thống bên ngoài.
Với hệ thống cấu trúc phân tán, người quản lý hoạt động công ty không nhất thiết phải góp vốn chủ sở hữu, nên việc quản lý được phân tách tương đối rạch ròi với lợi ích kinh tế mà họ nhận được; doanh nghiệp có nhiều cổ đông đòi hỏi quá trình hoạt động phải công khai và hoạt động giám sát phải được tiến hành chặt chẽ. Tuy nhiên, hệ thống này lại có nhược điểm là các cổ đông nhỏ ít có động lực để tham gia quản lý công ty, dễ dàng thoái vốn và có khuynh hướng ủng hộ các quyết định mang lại lợi ích ngắn hạn.
2.1.2. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
2.1.2.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Hiệu quả hoạt động được hiểu theo nghĩa chung nhất là các lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội mà một cá nhân hay tổ chức đạt được trong quá trình hoạt động của mình. Đối với tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế, với các cơ chế quản lý khác nhau thì có các nhiệm vụ mục tiêu hoạt động khác nhau. Ngay trong mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng có các mục tiêu khác nhau, nhưng có thể nói rằng mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh với bất kỳ loại hình sở hữu nào đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Khi đó, bên cạnh hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế là tiêu chí chủ yếu được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Để hiểu được khái niệm hiệu quả hoạt động cần xem xét đến hiệu quả kinh tế của một hiện tượng. “Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc quá trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu xác định”, nó biểu hiện mối quan hệ tương quan giữa kết quả thu được và toàn bộ chi phí bỏ ra để có kết quả đó, phản ánh được chất lượng của hoạt động kinh tế đó. Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế của một hiện tượng như trên ta có thể hiểu: “Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã đặt ra, nó biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và những chi phí bỏ ra để có kết quả đó, độ chênh lệch giữa hai đại lượng này càng lớn thì hiệu quả càng cao”. Như vậy, nếu hiểu hiệu quả theo mục đích thì hiệu quả hoạt động là chênh lệch giữa kết quả thu được và chi phí nguồn lực. Hiệu quả hoạt động được nâng cao trong trường hợp kết quả tăng, chi phí giảm và cả trong trường hợp chi phí tăng nhưng tốc độ tăng kết quả nhanh hơn tốc độ tăng chi phí đã chi ra để đạt được kết quả đó.
2.1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Việc lựa chọn các chỉ tiêu chính yếu để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào việc yếu tố nào là then chốt đối với sự thành công của doanh nghiệp. Vì vậy, các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thường được chia làm nhiều nhóm khác nhau:
(1) Nhóm các chỉ tiêu đo lường hiệu quả sản xuất – kinh doanh: bao gồm các chỉ tiêu như doanh thu, số lượng khách hàng mới, tình hình công nợ với khách hàng và nhà cung cấp, mức sinh lời của từng phân khúc khách hàng…;
(2) Nhóm các chỉ tiêu đo lường hiệu quả tài chính: là các chỉ tiêu tài chính được tính toán từ báo cáo tài chính, thể hiện khả năng sinh lời và vị thế tài chính của doanh nghiệp, bao gồm các chỉ tiêu như lợi nhuận ròng, các tỷ số thanh khoản, các tỷ số sinh lời, tổng tài sản,…;
(3) Nhóm các chỉ tiêu đo lường hiệu quả xã hội và môi trường: bao gồm các chỉ tiêu như đầu tư vào hoạt động cộng đồng, cách thức xử lý rác thải và tái chế.
Mặc dù khác nhau về nội dung đo lường, các chỉ tiêu này nhìn chung đều phải đáp ứng các tiêu chí sau để đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp một cách chính xác nhất, bao gồm: có mục đích cụ thể, có thể đo lường được, các tiêu chuẩn đặt
ra có thể đạt được, phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh, và giai đoạn hoạt động kinh doanh.
Trong các chỉ tiêu nói trên thì chỉ tiêu tài chính có thể coi là chỉ tiêu phổ biến nhất và thường được sử dụng trong các nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Phần lớn các nghiên cứu về tác động cấu trúc sở hữu tới hiêu quả hoạt động của doanh nghiệp tiêu biểu như nghiên cứu của Short và Keasey (1999)[108] đều cho rằng để đánh giá hiệu quả hoạt động nên sử dụng các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời như ROA, ROE. Trong khi đó, nghiên cứu của Morck, Shleifer và Vishny (1988) [95] lại cho rằng nên sử dụng chỉ số Tobin’s Q, bởi vì chỉ số này phản ánh giá trị thị trường của cổ phiếu và thể hiện đánh giá của thị trường đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, trong các nghiên cứu để đánh giá tác động của cấu trúc sở hữu tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, Demsetz và Lehn (1985)[58] cho rằng nên sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu như ROA, ROE và Tobin’s Q.
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)
ROA là hệ số cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lợi nhuận sau thuế được tạo ra từ lượng vốn đầu tư, tức là cứ một đồng đầu tư vào tổng tài sản thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tài sản của một doanh nghiệp được hình thành từ nợ và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp. ROA càng cao càng tốt vì cho thấy doanh nghiệp đang kiếm được nhiều lợi nhuận từ tổng tài sản.
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Hệ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty nào. Hầu hết các cổ đông hoặc các nhà đầu tư rất quan tâm đến hệ số này bởi nó gắn với lợi nhuận mà họ có thể nhận được. Nếu tỷ số ROE cao thì sẽ cho thấy hiệu quả sinh lời của doanh nghiệp là tốt bởi vốn chủ sở hữu bỏ ra đã tạo ra được mức lợi nhuận sau thuế tốt.