Kiểm Tra, Kiểm Định Các Khiếm Khuyết Của Mô Hình


Trước hết, ta sử dụng kiểm định F-test để lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS và mô hình FEM. Giả thuyết được đưa ra như sau:

Giả thuyết H0: Mô hình POLS phù hợp hơn mô h nh FEM Giả thuyết H1: Mô hình FEM phù hợp hơn mô h nh POLS

Bảng 4.5. Kết quả kiểm định F-test


Kiểm định

Giá trị thống kê

P-value

F-test

4.43

0.000

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.

Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 8


Với giá trị p-value =0.000 nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%. Do đó, bác bỏ giả thiết Ho. Nên trong 2 mô hình POLS và FEM, ta lựa chọn mô hình FEM là mô hình phù hợp.


Sa ó, sử dụng kiểm định Hausman để lựa chọn giữa mô hình FEM và REM. Với giả thuyết như sau:

Giả thuyết H0: Mô hình REM phù hợp hơn mô h nh FEM Giả thuyết H1: Mô hình FEM phù hợp hơn mô h nh REM

Bảng 4.6. Kết quả kiểm định Hausman


Kiểm định

Chi bình phương (x2)

P-value

Hausman

17.92

0.0064


Với giá trị p-value=0.0064 nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%. Do đó, bác bỏ giả thiết Ho. Vậy trong 2 mô hình REM và FEM, ta lựa chọn mô hình FEM là mô hình phù hợp.

Từ các kết quả trên, ta thấy mô hình FEM là mô hình phù hợp nhất trong 3 mô hình hồi quy về thanh khoản. Chính vì vậy, tác giả sẽ thực hiện kiểm định khiếm khuyết trong các bước tiếp theo dựa theo kết quả hồi quy của mô hình FEM.

4.2.4. Kiểm tra, kiểm định các khiếm khuyết của mô hình



sau:

Hiện tượng phương sai sai số thay đổi:

Thực hiện kiểm định Modified Wald trong mô hình FEM với giải thuyết như


Giả thuyết H0: Mô hình không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng phương sai sai số thay đổi

Bảng 4.7. Kết quả kiểm định Modified Wald


Kiểm định

Chi bình phương (x2)

P-value

Modified Wald

712.12

0.000


Kết quả cho thấy p-value=0.00 nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%; do đó bác bỏ giả thiết Ho, mô hình có hiện tượng phương sai sai số thay đổi.


Hiện tượng tự tương quan

Thực hiện kiểm định hiện tượng tự tương quan bằng kiểm định Wooldridge với giả thuyết như sau:

Giả thuyết H0: Mô hình không có hiện tượng tự tương quan bậc 1 Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng tự tương quan bậc 1

Bảng 4.8. Kết quả kiểm định Wooldridge


Kiểm định

Thống kê F

P-value

Wooldridge

26.989

0.000


Kết quả cho thấy p-value=0.000 nhỏ hơn mức ý nghĩa 1%. Do đó, bác bỏ giả thuyết Ho, mô hình có hiện tượng tự tương quan.


Ước lương tác động ngẫu nhiên FGLS

Ước lượng FGLS được sử dụng để khắc phục các bệnh của mô hình gồm hiện tượng phương sai sai số thay đổi và tự tương quan. Kết quả ước lượng FGLS như sau:


Bảng 4.9. Kết quả ước lượng FGLS


Biến

Ước lượng FGLS

SIZE

0.0102

CAP

0.2570

LG

-0.0112*

NPL

-0.0594

MLTR

-0.1307***

GDP

0.3864

C

0.1609

Nguồn: Tính toán của tác giả.

*** tương ứng với mức ý nghĩa 1%, ** tương ứng với mức ý nghĩa 5%, * tương ứng với mức ý nghĩa 10%.

Kết quả ước lượng sau khi lựa chọn mô hình phù hợp nhất cho thấy:

Tác ộng của biến ăn rưởn c o va ến thanh khoản: LG tương quan âm với LIQ. Có nghĩa là, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, với mức ý nghĩa 10%, tốc độ cho vay tăng/giảm 1% thì tỷ lệ dự trữ thanh khoản của ngân hàng sẽ giảm/tăng 1,12%..

Tác ộng của biến Tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổn c o va ến thanh khoản: MLTR tương quan âm với LIQ. Có nghĩa là, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, với mức ý nghĩa 1%, tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng cho vay tăng/giảm 1% thì tỷ lệ dự trữ thanh khoản của ngân hàng sẽ giảm/tăng 13,07%.

Các yếu tố khác: quy mô tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, tốc độ tăng trưởng kinh tế có quan hệ đồng biến với thanh khoản, nợ xấu có quan hệ nghịch biến với thanh khoản nhưng các mối quan hệ này không có ý nghĩa thống kê.

4.3. Thảo luận kết quả

4.3.1. Tác động của tăng trưởng cho vay đến thanh khoản.

Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ dự trữ thanh khoản và tăng trưởng cho vay có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Điều này có nghĩa ngân hàng càng tăng cho vay


thì thanh khoản càng xấu đi và rủi ro thanh khoản tăng lên. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết và trùng hợp với các kết quả nghiên cứu trước đây.

Kết quả được lý giải bởi các khoản cho vay được xem là tài sản ít có tính thanh khoản, các khoản vay có kỳ hạn càng dài thì tính thanh khoản càng thấp. Khi ngân hàng thương mại sử dụng nguồn tiền để cho vay thì đồng nghĩa sẽ phải giảm tài sản có tính thanh khoản cao để năm giữ lượng tài sản có tính thanh khoản thấp, đặc biệt là các khoản vay trung dài hạn, đây là những khoản có tính thanh khoản thấp nhất nhưng đem lại lợi nhuận cao nhất.

Đồng thời, cho vay tăng sẽ làm gia tăng khoảng trống về kỳ hạn giữa tiền vay và tiền gửi, những điều này sẽ tác động xấu đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại.

4.3.2. Tác động của tỷ lệ cho vay trung dài hạn đến thanh khoản

Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ dự trữ thanh khoản và tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng cho vay có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Kết quả này có nghĩa ngân hàng càng tăng cho vay trung dài hạn thì thanh khoản càng xấu đi và rủi ro thanh khoản tăng lên. Kết quả được lý giải bởi khi cho vay trung dài hạn tăng lên th các ngân hàng sẽ gia tăng việc năm giữ lượng tài sản kém thanh khoản; đồng thời, cho vay trung dài hạn càng lớn thì khoảng trống về kỳ hạn giữa tiền vay và tiền gửi càng cao, bởi ngân hàng thương mại huy động tiền gửi để cho vay, nhưng các khoản huy động thường là ngắn hạn, còn các cho vay th thường là trung dài hạn. Những điều này dẫn đến việc gia tăng cho vay trung dài hạn sẽ giảm khả năng thanh khoản của các NHTM .

4.3.3. Tác động của quy mô tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, nợ ấu và tăng trưởng kinh tế đến thanh khoản

Quy mô ngân hàng: Dựa theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ dự trữ thanh khoản và quy mô ngân hàng có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ này không có ý nghĩa thống kê. Lý giải cho kết quả này như sau:


Quy mô ngân hàng được thể hiện thong qua Logarit tổng tài sản, khi sử dụng Logarit thì chênh lệch về số liệu thực tế về tổng tài sản của các ngân hàng bị thu hẹp lại, không có sự chênh lệch lớn.

Đồng thời, tại Việt Nam, có thể thấy rằng mỗi ngân hàng có một chiến lược quản lý thanh khoản khác nhau, những ngân hàng thuộc nhóm lớn có cổ phần của Nhà nước là Vietinbank, Vietcombank, Agribank, BIDV là những ngân hàng lớn nhất về quy mô tổng tài sản nhưng lại không phải là nhóm có tỷ lệ dữ trữ thanh khoản cao nhất, tỷ lệ dự trữ thanh khoản cao nhất thuộc về nhóm ngân hàng có quy mô tài sản trung bình và trên trung b nh. Điều này có thể được lý giải ở chỗ, các ngân hàng lớn có được sự hỗ trợ lớn của Nhà nước, khả năng tiếp cận nguồn vốn thị trường liên ngân hàng cao, vị thế, uy tín luôn nằm ở nhóm đầu do đó sẽ không có nhiều động cơ để tăng cường nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao; còn các ngân hàng có quy mô trung bình với tỷ lệ dữ trữ thanh khoản cao nhất đều là những ngân hàng cổ phần, nhận được ít sự hỗ trợ của Nhà nước, chịu nhiều áp lực về quản lý thanh khoản đồng thời đủ khả năng và uy tín để tự duy trì khả năng thanh khoản thông qua việc huy động từ người dân, tổ chức.

Vốn chủ sở hữu: Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ dự trữ thanh khoản và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ này không có ý nghĩa thống kê. Mặc dù, theo lý thuyết thì một ngân hàng thương mại có vốn chủ sở hữu càng cao thì khả năng chống chọi với rủi ro hàng tốt hay tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản càng cao th chứng tỏ khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính càng cao, mức độ độc lập càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, tại Việt Nam thì vốn chủ sở hữu không thể hiện được vai trò của nó. Bởi sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 141/2006/NĐ-CP, các NHTM phải có vốn điều lệ tối thiểu đạt được 1.000 tỉ đồng (đến 31/12/2008) và 3.000 tỉ đồng (đến 31/12/2010, sau đó được gia hạn đến 31/12/2011) đã tạo nên áp lực tăng vốn cho các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô nhỏ.

Theo nghiên cứu về sở hữu chồng chéo giữa các tổ chức tín dụng và tập đoàn kinh tế tại Việt Nam của Vũ Thành Tự Anh, Trần Thị Quế Giang, Nguyên Đức


Mậu, Nguyễn Xuân Thành Và Đỗ Thiên Anh Tuấn (2013) đã đưa ra nhận xét việc tăng vốn điều lệ của các Ngân hàng thương mại trong giai đoạn này không xuất phát từ nhu cầu có tính chất tự thân để nâng cao tiềm lực tài chính cũng như khả năng cạnh tranh mà vô h nh trung đã bị “hành chính hóa”, việc tăng vốn trở thành áp lực có tính áp đặt, dẫn đến nhiều ngân hàng rơi vào t nh thế khó khăn. Cốt lõi của việc tăng vốn đó là các ngân hàng t m kiếm những nhà đầu tư chiến lược, vừa có tiềm lực tài chính, vừa am hiểu lĩnh vực ngân hàng, đồng thời có kỹ năng quản trị tốt. Nhưng lúc này, các ngân hàng với áp lực tăng vốn quá gấp rút đã buộc phải hủy bỏ hoặc tạm gác lại việc tìm kiếm những nhà đầu tư như vậy để thay bằng những nhà đầu tư nhiều tiền nhưng lại thiếu chuyên nghiệp hoặc những nhóm lợi ích vụ lợi, “muốn biến ngân hàng trở thành cổng tài chính cho các dự án đầy tham vọng và rủi ro của m nh.””

Đồng thời, áp lực tăng vốn cũng khiến cho các ngân hàng tìm cách lách luật, tăng vốn ảo bằng cách sở hữu chồng chéo với nhau. Điều này vừa làm méo mó các quy định quản lý của Ngân hàng nhà nước, vừa gây ra rủi ro cho hệ thống NHTM.

Nợ xấu: Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ nợ xấu trên tổng cho vay có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với thanh khoản. Quan hệ nghịch biến này được lý giải là ngân hàng sử dụng tiền gửi huy động để cho vay, nhưng khi rủi ro xảy ra, khách hàng bị vỡ nợ hoặc không trả được nợ, ngân hàng sẽ không đòi được tiền vay, điều này làm lượng tiền mặt của ngân hàng bị giảm xuống kéo theo sự sụt giảm của tổng tài sản. Trong khi nghĩa vụ trả nợ tiền gửi khi khách hàng rút tiền vẫn còn đó th việc không có luồng tiền về từ hoạt động cho vay sẽ làm gia tăng rủi ro thanh khoản cho ngân hàng. Bên cạnh đó, khi một ngân hàng bị công bố một tỷ lệ nợ xấu cao th đa phần tâm lí chung của người gửi tiền sẽ lo sợ và sẽ đến rút tiền của họ để gửi vào ngân hàng khác, điều này làm cho thanh khoản của ngân hàng càng trở nên giảm sút. Tuy nhiên, mối quan hệ này không có ý nghĩa thống kê. Điều này được lý giải là số liệu nợ xấu của các NHTM công bố trên BCTC dựa theo dựa trên Chuẩn mức Kế toán Việt Nam (VAS) và các quy định về phân loại nợ của NHNN, tỷ lệ này không phản ánh đúng thực tế, bởi các ngân hàng sử dụng những thủ thuật kế toán khác nhau để


giấu bớt nợ xấu. Có nhiều tổ chức đã nghiên cứu về nợ xấu tại Việt Nam như Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Moody’s, kết quả về nợ xấu của các tổ chức này công bố đều cao hơn rất nhiều so với số liệu nợ xấu của các NHTM đưa lên trên BCTC.

Tăn rưởng kinh tế: Theo kết quả nghiên cứu, tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ tỷ lệ thuận với thanh khoản. Tuy nhiên, mối quan hệ này không có ý nghĩa thống kê.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Trong chương 4, tác giả đã thực hiện mô hình hồi quy với các yếu tố tác động đến thanh khoản của các NHTM Việt Nam, nguồn số liệu được lấy từ 25 NHTM Việt Nam từ 2008-2017.

Kết quả cho thấy, các yếu tố quy mô ngân hàng, quy mô tổng tài sản, tăng trưởng kinh tế có tác động cùng chiều với thanh khoản, tỷ lệ nợ xấu có tác động ngược chiều với thanh khoản; tuy nhiên, các tác động của quy mô tổng tài sản, tỷ lệ nợ xấu, tăng trưởng kinh tế không có ý nghĩa về mặt thống kê. Còn các yếu tố tăng trưởng cho vay, tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng cho vay có tác động ngược chiều với thanh khoản.

Kết quả chương 4 là cơ sở để cho tác giả đưa ra kết luận và các hàm ý quản trị trong chương 5.

Xem tất cả 93 trang.

Ngày đăng: 09/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí