Thứ tư, đề xuất hệ thống giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện QTTK tại Agribank đến năm 2025, bảo đảm hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát triển ổn định và bền vững.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: QTTK của NHTM
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Luận án nghiên cứu QTTK của NHTM, trong đó tập trung chủ yếu vào vấn đề tổ chức và quy trình QTTK của NHTM.
+ Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu QTTK tại Agribank (không bao gồm các công ty con, công ty liên doanh, liên kết của Agribank).
+ Về thời gian: Khảo sát, phân tích thực trạng QTTK tại Agribank giai đoạn 2013 - 2018. Giải pháp đến năm 2025.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận án sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu khoa học:
Thứ nhất, trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị thanh khoản tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 1
- Quản trị thanh khoản tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 2
- ?khoảng Trống” Trong Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Luận Án
- Trạng Thái Thanh Khoản Ròng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Sự Cần Thiết Quản Trị Thanh Khoản Của Ngân Hàng Thương Mại
- Mô Hình Quản Trị Thanh Khoản Hiện Đại Của Nhtm
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
- Phương pháp thống kê: Luận án thu thập và thống kê dữ liệu liên quan đến thanh khoản, QTTK trong giai đoạn 2013 - 2018 từ các báo cáo tài chính đã kiểm toán và báo cáo thường niên của Agribank, của các NHTM Việt Nam và báo cáo của NHNN.
- Phương pháp phân tích: Luận án thực hiện phân tích các tiêu chí định lượng, phân tích định tính thực trạng thanh khoản và QTTK tại Agribank.
- Phương pháp so sánh: so sánh các vấn đề nghiên cứu giữa các năm, giữa Agribank với các NHTM khác.
- Các phương pháp tư duy khoa học khác như quy nạp, diễn giải, tổng hợp…
Thứ hai, phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi
Do dữ liệu thứ cấp tại Agribank chưa phản ánh đầy đủ thực trạng thanh khoản và QTTK. Vì vậy, để làm rõ thực trạng ở chương 2 và đề xuất giải pháp ở chương 3, NCS thu thập thêm dữ liệu sơ cấp về thanh khoản và QTTK tại Agribank thông qua khảo sát bằng bảng hỏi.
NCS đã xây dựng bảng hỏi để khảo sát, lấy ý kiến 2 nhóm đối tượng là cán bộ làm việc tại các chi nhánh/Phòng giao dịch Agribank và khách hàng cá nhân của Agribank. Nội dung các bảng hỏi được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở yêu cầu về dữ liệu sơ cấp cho luận án và ý kiến chuyên gia là các các cán bộ ngân hàng, các nhà quản lý ngân hàng và các nhà khoa học. ` .
+ Đối với bảng hỏi dành cho nhân viên các chi nhánh: NCS phát phiếu khảo sát trực tiếp và thông qua email đến các nhân viên của Agribank ở 7 chi nhánh/phòng giao dịch: Chi nhánh Hà Nội, chi nhánh Hà Tĩnh, chi nhánh Bắc Ninh, chi nhánh Phú Thọ, chi nhánh Hưng Yên, chi nhánh Nghệ An, chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Các chi nhánh được chọn có đại diện chi nhánh loại 1, loại 2 và phòng giao dịch ở các địa bàn khác nhau bao gồm cả khu vực thành phố và khu vực nông thôn.
+ Đối với bảng hỏi dành cho khách hàng cá nhân của Agribank: Các khách hàng được chọn khảo sát đảm bảo sử dụng các dịch vụ khác nhau của Agribank ở các địa bàn: Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Nội, Bắc Ninh. Các địa bàn được chọn bao gồm cả khu vực thành phố và khu vực nông thôn.
Các phương pháp trên được sử dụng kết hợp nhằm mục đích xem xét, đánh giá các vấn đề về đối tượng nghiên cứu của luận án. Ngoài ra, luận án cũng kế thừa, vận dụng một số kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận án
6.1. Những đóng góp về mặt lý luận
Thứ nhất, luận án làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận về QTTK của NHTM mà các công trình nghiên cứu trước đó chưa đề cập hoặc đề cập chưa có tính hệ thống và đầy đủ. Cụ thể:
(i) Làm rõ các vấn đề thanh khoản của NHTM: khái niệm thanh khoản và cơ chế điều hòa thanh khoản của NHTM; (ii) Làm rõ nội hàm “QTTK của NHTM” và các vần đề cơ bản về QTTK hiện đại của NHTM: chiến lược QTTK và khẩu vị RRTK, chính sách QTTK, mô hình tổ chức và quy trình QTTK.
Thứ hai, nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm xử lý các tình huống trong QTTK của một số ngân hàng trong nước và nước ngoài, luận án khẳng định: Để QTTK hiệu quả, ngân hàng cần thiết lập một hệ thống QTTK đủ mạnh, nâng cao
công tác dự báo kinh tế vĩ mô, có kế hoạch hành động trong trường hợp khẩn cấp, thực hiện chiến lược kinh doanh thận trọng, xây dựng lòng tin từ khách hàng và nhà đầu tư, quan tâm đến mối quan hệ giữa các rủi ro khác với RRTK, nhận thức rõ vai trò điều tiết của NHNN và sự hỗ trợ của các NHTM khác trong xử lý sự cố thanh khoản và RRTK. Đây là những bài học thực sự có ý nghĩa cho Agribank trong QTTK nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn, phát triển bền vững.
6.2. Những đóng góp về mặt thực tiễn
Thứ nhất, luận án đánh giá đúng thực trạng QTTK tại Agribank giai đoạn 2013 – 2018 và chỉ ra: Agribank đã xây dựng chiến lược QTTK và khẩu vị RRTK, chính sách và quy trình QTTK nhưng so với yêu cầu của QTTK hiện đại, QTTK tại Agribank còn hạn chế về tổ chức bộ máy, hệ thống cơ sở dữ liệu, phương pháp và công cụ, năng lực đội ngũ cán bộ phục vụ QTTK. Các đánh giá về kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong QTTK tại Agribank là có cơ sở khoa học và thực tiễn vì bám sát cơ sở lý luận ở chương 1 và các dữ liệu có nguồn gốc rõ ràng, độ tin cậy cao là các báo cáo tài chính đã kiểm toán, báo cáo thường niên của Agribank giai đoạn 2013 - 2018 và kết quả khảo sát bằng bảng hỏi.
Thứ hai, luận án đề xuất hệ thống giải pháp và kiến nghị hoàn thiện QTTK tại Agribank đến năm 2025, bảo đảm hoạt động kinh doanh hiệu quả, phát triển ổn định và bền vững. Các giải pháp tập trung vào các vấn đề: tái cơ cấu bộ máy QTTK, tổ chức thực hiện cơ chế quản lý vốn tập trung, sắp xếp và kiện toàn nhân sự, hoàn thiện các công cụ QTTK, cải tiến phương pháp đo lường thanh khoản, nâng cao hiệu quả giám sát và kiểm soát thanh khoản, nâng cao vị thế và uy tín của Agribank. Các giải pháp và kiến nghị có ý nghĩa và có tính khả thi cao vì được luận giải có cơ sở khoa học và bám sát thực tiễn QTTK tại Agribank.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị thanh khoản của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản trị thanh khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản trị thanh khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ THANH KHOẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề cơ bản về thanh khoản của ngân hàng thương mại
1.1.1. Vài nét về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
NHTM ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Khái niệm NHTM ở các cách tiếp cận khác nhau, thời điểm khác nhau đã có nhiều thay đổi. Cụ thể:
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Mùi [32]: “NHTM là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng - Một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế”.
Theo PGS. TS Nguyễn Đăng Dờn [31]: “NHTM là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các loại hình doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể xã hội và cá nhân, bằng việc huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi hoạt kỳ, tiền gửi định kỳ, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đồng thời sử dụng số vốn huy động được để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên”.
Theo Luật các TCTD năm 2010 [39]: “NHTM là loại hình TCTD được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các TCTD và các quy định khác của pháp luật". Trong đó, hoạt động ngân hàng bao gồm: Nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Cụ thể:
- Hoạt động nhận tiền gửi: hoạt động này gắn liền với việc tạo lập nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM, do đó nó được ngân hàng thực hiện thường xuyên bằng việc cung cấp rất nhiều sản phẩm tiền gửi đa dạng, phong phú.
- Hoạt động tín dụng: tín dụng là hoạt động kinh doanh đặc trưng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản ở phần lớn các NHTM nhưng lại là tài sản có tính thanh khoản rất thấp và mức độ rủi ro cao. Do đó, khi cấp tín dụng, ngân hàng phải đảm bảo đạt lợi nhuận cao nhất với mức độ rủi ro có thể chấp nhận được. Ngày nay,
các ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng bằng tiền hoặc bằng tài sản với nhiều hình thức đa dạng, phong phú; bao gồm: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê tài chính. Trong đó, dịch vụ cho vay được xem là dịch vụ sinh lời chủ yếu của các NHTM.
- Dịch vụ thanh toán: ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ thông qua nhiều hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thuận lợi và được chuẩn hóa. Ngoài ra, các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua NHTW hoặc trung tâm thanh toán. Dịch vụ thanh toán ngày càng mang lại nguồn thu nhập lớn cho các NHTM và đã biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế.
Có thể thấy, mặc dù các khái niệm về NHTM không hoàn toàn đồng nhất, song các khái niệm đều đề cập đến những nội dung cơ bản: (i) là một tổ chức trung gian tài chính; (ii) hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận; (iii) cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng, trong đó 3 dịch vụ đặc thù là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.
Như vậy, có thể hiểu: NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với hoạt động cơ bản và thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân, trong đó có dịch vụ thanh toán.
So với các trung gian tài chính khác, NHTM luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng: (i) Cung ứng các dịch vụ ngân hàng đa dạng; (ii) là cầu nối quan trọng giữa cung và cầu về vốn, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển, NHTM vẫn là kênh chủ yếu thu hút và cung cấp vốn cho nền kinh tế; (iii) là một chủ thể quan trọng truyền dẫn chính sách tiền tệ của NHTW: Để thực thi chính sách tiền tệ, NHTW phải sử dụng các công cụ như lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, thị trường mở… tác động đến cung tiền, cuối cùng là tác động đến lạm phát. Bên cạnh đó, tiền gửi tại NHTM là bộ phận cơ bản cấu thành cung tiền trong nền kinh tế. Do đó, cung tiền có thể được điều chỉnh thông qua điều chỉnh tiền gửi của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, chính sách tiền tệ của NHTW có thể được chuyển tải đến nền kinh tế thông qua hệ thống các ngân hàng.
1.1.1.2. Đặc điểm kinh doanh của ngân hàng thương mại
So với các doanh nghiệp hoạt động các lĩnh vực khác, kinh doanh ngân hàng có những đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, đối tượng kinh doanh của NHTM là tiền tệ.
Tiền tệ là một đối tượng kinh doanh đặc biệt. Giá trị của tiền tệ rất dễ biến động khi có sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Khi có sự thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước, sự biến động các yếu tố vĩ mô như lạm phát, lãi suất, tỷ giá hoặc có sự biến động nền kinh tế, chính trị, xã hội đều tác động nhất định đến giá trị đồng tiền. Vì vậy, với đối tượng kinh doanh là tiền tệ, ngân hàng luôn đối mặt với rủi ro khi có bất kỳ sự biến động nào của môi trường kinh doanh.
Thứ hai, sản phẩm kinh doanh của NHTM mang tính tương đồng, dễ bắt chước và gắn với yếu tố thời gian.
Các sản phẩm, dịch vụ mà NHTM cung cấp cho khách hàng rất đa dạng. Nhưng phần lớn các sản phẩm của các ngân hàng lại khá tương đồng, dễ bắt chước. Khi một NHTM có một sản phẩm mới mang tính khác biệt trên thị trường thì sản phẩm đó nhanh chóng trở nên đại trà vì các ngân hàng khác có thể triển khai sản phẩm tương tự. Mặt khác, tiền tệ luôn gắn với yếu tố thời gian nên thời gian chính là yếu tố quan trọng thực hiện giá trị của sản phẩm và quyết định giá cả của sản phẩm.
Thứ ba, vốn kinh doanh của ngân hàng chủ yếu huy động từ bên ngoài, tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp ở các lĩnh vực kinh doanh khác.
Do hoạt động chủ yếu và thường xuyên của NHTM là huy động vốn để cho vay, đầu tư nên vốn kinh doanh chủ yếu của NHTM dựa vào vốn bên ngoài, tỷ trọng vốn tự có rất thấp (thường dưới 10%). Đặc điểm về cơ cấu vốn đã tạo ra đòn bẩy tài chính của NHTM cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp khác. Vì vậy hoạt động ngân hàng luôn đối mặt với rủi ro tài chính cao hơn các lĩnh vực khác.
Thứ tư, hoạt động kinh doanh của ngân hàng tác động đến mọi mặt của nền kinh tế quốc dân.
Với đặc điểm là một trung gian tài chính cung ứng 3 nhóm dịch vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán, hoạt động của NHTM
tác động đến mọi mặt của nền kinh tế quốc dân và bộ phận lớn dân cư. Hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế quốc dân cho dù là cá nhân hay tổ chức kinh tế ít nhiều đều sử dụng dịch vụ ngân hàng. Vì vậy một sự thay đổi nhỏ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng có thể tác động nhất định đến lợi ích của các cá nhân, các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Trong trường hợp những thay đổi đó tác động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế có thể gây suy thoái kinh tế hoặc khủng hoảng kinh tế.
Thứ năm, các nghiệp vụ kinh doanh của các NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Các NHTM nói riêng và TCTD nói chung có mối quan hệ chặt chẽ với nhau thông qua các hoạt động liên quan như gửi tiền, cho vay… Vì vậy khi một ngân hàng có khó khăn trong hoạt động kinh doanh tùy mức độ có thể tác động xấu đến các NHTM khác. Các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới đã chỉ ra rằng một ngân hàng phá sản có thể kéo theo sự phá sản của cả hệ thống NHTM và khủng hoảng hệ thống tài chính.
Thứ sáu, hoạt động kinh doanh của NHTM dựa trên chữ “tín”.
Thực tiễn hoạt động ngân hàng cho thấy, chỉ khi ngân hàng chiếm được lòng tin của khách hàng thì mới giữ chân và thu hút khách hàng đến với mình. Chính vì vậy, trong mọi trường hợp, việc giữ chữ “tín” luôn là vấn đề sống còn đối với ngân hàng. Nếu một ngân hàng bị mất chữ “tín”, khách hàng chuyển tiền gửi sang ngân hàng có uy tín tốt hơn, hậu quả là ngân hàng sẽ khó khăn trong huy động vốn, cho vay và sụt giảm thu nhập. Tồi tệ hơn nếu khách hàng rút tiền ồ ạt, ngân hàng có thể phá sản.
Những đặc điểm riêng có trong hoạt động kinh doanh của NHTM cho thấy rủi ro trong kinh doanh ngân hàng rất đa dạng, phức tạp, nguy cơ phát sinh luôn tiềm ẩn trọng mọi hoạt động của ngân hàng. Rủi ro xảy ra có thể để lại hậu quả nặng nề cho bản thân ngân hàng và nền kinh tế quốc dân. Chính vì điều này, hoạt động ngân hàng luôn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan giám sát ngân hàng và luôn phải đảm bảo những giới hạn an toàn để hạn chế rủi ro cho mỗi ngân hàng và rủi ro hệ thống.
1.1.2. Thanh khoản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm thanh khoản của ngân hàng thương mại
Dưới góc độ tài sản, thanh khoản là một khái niệm để chỉ khả năng chuyển thành tiền của một tài sản. Một tài sản có tính thanh khoản cao có nghĩa là tài sản đó dễ dàng chuyển thành tiền mặt thông qua bán trên thị trường với thời gian nhanh nhất và chi phí thấp nhất.
Trong hoạt động của NHTM, thuật ngữ “thanh khoản” đã được đề cập khá nhiều song các khái niệm không hoàn toàn giống nhau do quan điểm tiếp cận.
Theo Tác giả Rudolf Duttweiler [40]: “Thanh khoản đại diện cho khả năng thực hiện tất cả các nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn - đến mức tối đa và bằng đơn vị tiền tệ được quy định”.
Theo Uỷ ban Basel (năm 2008)[62]: “Thanh khoản là khả năng của ngân hàng vừa có thể tăng thêm tài sản vừa đáp ứng các nghĩa vụ đến hạn mà không bị những thiệt hại quá mức cho phép”.
Theo PGS.TS Phan Thị Thu Hà [33]: “Tính thanh khoản của ngân hàng là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn. Một ngân hàng có tính thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả năng mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp, hoặc cả hai, phù hợp với nhu cầu thanh khoản”.
Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Đờn [31]: “Tính thanh khoản của NHTM được xem như khả năng tức thời để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết”.
Một cách tổng quát có thể hiểu: “Thanh khoản của NHTM là khả năng đáp ứng một cách kịp thời và đầy đủ các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng như rút tiền gửi, giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết, chi trả chi phí hoạt động hay những nhu cầu phải thanh toán bằng tiền khác với chi phí hợp lý”. Thanh khoản của NHTM được thể hiện ở tương quan dòng tiền vào và dòng tiền ra tại một thời điểm nhất định trong hoạt động của ngân hàng, do tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn vốn quyết