Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Trị Thanh Khoản Của Ngân Hàng Thương Mại

Ngân hàng cần thiết lập kế hoạch dự phòng cả trong ngắn hạn và dài hạn. Các kế hoạch dự phòng cần ghi rõ chiến lược hoạt động của ngân hàng trong tình huống có khủng hoảng về khả năng thanh khoản và bao gồm các thủ tục bù đắp luồng tiền trong các trường hợp khẩn cấp. Nội dung kế hoạch dự phòng bao gồm:

- Vai trò, trách nhiệm và sự phối hợp của các cá nhân khác nhau trong tình huống khủng hoảng. Các nguồn thông tin quản lý cần được duy trì đều đặn và kịp thời.

- Chính sách quản lý trong các kịch bản căng thẳng khác nhau: các hoạt động cần thiết để huy động các nguồn vốn thay thế, và thực hiện các hành động nhằm hạn chế động thái của khách hàng có khả năng gây ra giảm sút thanh khoản như duy trì mối quan hệ tốt với những người gửi tiền/ cho vay, ngân hàng đối tác lớn.

- Xác định rõ ràng, định lượng và xếp hạng tất cả các nguồn tài trợ như: bán tài sản, thay đổi cấu trúc hoặc tăng tài sản nợ, sử dụng các công cụ phái sinh, hạn mức tín dụng chưa sử dụng…

d. Giám sát và báo cáo trạng thái thanh khoản

Ngân hàng phải thiết lập một hệ thống giám sát và báo cáo trạng thái thanh khoản đảm bảo các bên có thẩm quyền có thể nắm bắt kịp thời trạng thái thanh khoản và RRTK của ngân hàng cả trên góc độ từng hoạt động kinh doanh, từng đơn vị trực thuộc và toàn hệ thống ngân hàng.

* Giám sát thanh khoản

Hoạt động giám sát thanh khoản phải được thực hiện thường xuyên và ở tất cả các hoạt động liên quan. Trách nhiệm giám sát thanh khoản ở ngân hàng được phân theo cấp độ quản trị. Mỗi cấp quản trị trong ngân hàng đều phải giám sát trạng thái thanh khoản trong hạn mức của mình. Cấp cao nhất giám sát thanh khoản ở ngân hàng là HĐQT, BĐH. Trong đó, HĐQT giám sát thanh khoản định kỳ, BĐH giám sát thanh khoản hàng ngày và cả định kỳ. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả giám sát thanh khoản, ngân hàng phải thiết lập hệ thống KT - KSNB lành mạnh, phù hợp với quy mô, cơ cấu ngân hàng. Ngân hàng phải thiết lập chính sách giám sát phù hợp tạo cơ sở để hoạt động KT - KSNB được diễn ra hàng ngày trong từng hoạt động của ngân hàng.

Các NHTM thực hiện giám sát thanh khoản chủ yếu thông qua các chỉ số thanh khoản. Trong đó, các chỉ số cơ bản bao gồm:

Thứ nhất, chỉ số tăng trưởng tài sản, nguồn vốn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.

Mục tiêu giám sát chỉ số tăng trưởng tài sản là đánh giá mức độ tăng tài sản, từ đó giúp ngân hàng xây dựng chính sách cho vay, đầu tư tài sản phù hợp đảm bảo khả năng sinh lời và khả năng thanh khoản.

Mục tiêu giám sát chỉ số tăng trưởng nguồn vốn là đánh giá mức độ tăng nguồn vốn của ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng xây dựng chính sách huy động vốn để đảm bảo khả năng thanh khoản.

Quản trị thanh khoản tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 9

Mục tiêu giám sát tương quan tăng trưởng tài sản, nguồn vốn là đánh giá tính hợp lý giữa tăng trưởng tài sản và nguồn vốn, từ đó giúp ngân hàng cân đối giữa tăng trưởng tài sản và nguồn vốn, tránh gây thiếu hụt thanh khoản trong một giai đoạn nhất định.

Thứ hai, chỉ số về cơ cấu tài sản (mức độ tập trung tài sản)

Mục tiêu là đánh giá tính hợp lý trong cơ cấu tài sản của ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng xây dựng danh mục tài sản vừa tạo ra lợi nhuận lớn nhất vừa đảm bảo khả năng thanh khoản.

- Chỉ số cơ cấu nguồn vốn (mức độ tập trung nguồn vốn): thông qua xác định tỷ trọng từng loại nguồn trong nguồn huy động của ngân hàng theo kỳ mục tiêu đã xác định (1 tuần, 1 tháng, 1 năm...).

Mục tiêu chính là phát hiện mức độ tập trung các nguồn vốn, từ đó ngân hàng xây dựng các chính sách đa dạng hóa nhằm kiểm soát thanh khoản.

Thứ ba, chỉ số chất lượng tài sản

Nhóm chỉ tiêu này cần được theo dõi theo định kỳ, có hệ thống. Mục tiêu chính là đánh giá sự biến động chất lượng tài sản theo xu hướng nâng cao hay giảm thấp, từ đó ngân hàng thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng tài sản nhằm đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao khả năng chi trả.

Thứ tư, chỉ số về trạng thái ngoại tệ

Mục tiêu chính là đánh giá trạng thái ngoại tệ của ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng đưa ra các quyết định liên quan đến quản lý thanh khoản ngoại tệ.

Thứ năm, chỉ số hoán chuyển kỳ hạn

Mục tiêu chính là đánh giá nguy cơ mất cân bằng kỳ hạn giữa huy động vốn và sử dụng vốn, từ đó ngân hàng có sự điều chỉnh sự phù hợp về kỳ hạn giữa TSC – TSN tránh RRTK.

Thứ sáu, chỉ số Dư nợ cho vay/tiền gửi (LDR)

Mục tiêu chính là đánh giá khả năng cho vay của ngân hàng so với vốn huy động, từ đó ngân hàng đưa ra các quyết định sử dụng nguồn vốn huy động để cân đối giữa thu nhập với RRTK.

Thứ bảy, chỉ số dự trữ thanh khoản

Mục tiêu chính là đánh giá mức độ dự trữ thanh khoản của ngân hàng, từ đó ngân hàng phải theo dõi, quản lý các tỷ lệ khả năng chi trả.

Ngoài ra, các NHTM còn sử dụng các chỉ số dùng để nhận diện, đo lường thanh khoản đã đề cập ở trên để giám sát thanh khoản.

Sự biến động của các chỉ số trên sẽ được theo dõi và báo cáo kịp thời đến HĐQT và các cấp có thẩm quyền để họ nắm bắt chính xác khả năng thanh khoản của ngân hàng, từ đó có biện pháp kiểm soát thanh khoản thích hợp.

* Báo cáo trạng thái thanh khoản

NHTM cần thực hiện báo cáo thanh khoản vì các lý do sau:

- Báo cáo thanh khoản buộc các ngân hàng phải theo dõi trạng thái thanh khoản hàng ngày, định kỳ.

- Báo cáo thanh khoản cung cấp dữ liệu cho các bên liên quan theo yêu cầu của các quy định về QTTK.

Các báo cáo được lập, phân bổ và gửi đến cho các bộ phận chịu trách nhiệm giám sát thanh khoản. Do đó, chúng tuân theo phương pháp tiếp cận từ dưới lên - đi từ cấp quản trị thấp nhất lên cấp cao nhất. Nhà quản trị cấp thấp nhất sẽ nhận được báo cáo về việc sử dụng hạn mức của mình. Cấp trên nữa sẽ nhận báo cáo về tất cả các hạn mức trong phạm vi trách nhiệm của mình.

Tần suất báo cáo thanh khoản có thể là hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng. Điều này phụ thuộc vào nội dung chi tiết của mỗi loại báo cáo, cụ thể: báo cáo về việc sử dụng hạn mức cho cấp độ tiền tệ và những địa điểm/ đơn vị kinh doanh

thường được thực hiện hàng ngày, báo cáo về những thông tin có liên quan đến thanh khoản nội bảng được tạo ra hàng tuần, các báo cáo hợp nhất ở cấp cao hơn có xu hướng diễn ra hàng tháng. Bộ phận trực tiếp QTTK phải nhận được báo cáo thanh khoản hàng ngày, bộ phận quản trị cấp cao sẽ nhận được báo cáo thanh khoản ít nhất là hàng tháng và HĐQT phải nhận được báo cáo thanh khoản ít nhất là hàng quý. Tuy nhiên, trong trường hợp có những biến động trong hoạt động ngân hàng hay nền kinh tế hoặc tùy thuộc vào mức độ phức tạp của ngân hàng thì khoảng thời gian báo cáo thanh khoản sẽ được rút ngắn lại hay thường xuyên hơn. Nếu cần thiết ngân hàng có thể tăng tần suất báo cáo ngắn hạn.

Định dạng nội dung của báo cáo thanh khoản tùy thuộc vào đặc điểm của từng ngân hàng. Thông thường các báo cáo thanh khoản cần cung cấp các thông tin sau:

- Nhu cầu thanh khoản và các nguồn vốn có sẵn để đáp ứng nhu cầu này trong những khoảng thời gian khác nhau, kịch bản khác nhau.

- Dự báo lãi suất và điều kiện kinh tế trong khu vực giao dịch ngân hàng.

- Sự ổn định của khách hàng gửi tiền và nhà cung cấp bán buôn.

- Mức độ tài sản thanh khoản cao.

- Kết quả kiểm tra căng thẳng.

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị thanh khoản của ngân hàng thương mại

1.2.4.1. Các nhân tố khách quan

a. Môi trường kinh tế

QTTK của NHTM phụ thuộc rất nhiều vào tình hình kinh tế trong nước, khu vực và toàn cầu: suy thoái, phát triển. Trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp - khách hàng của ngân hàng có thể gặp bất lợi. Điều đó có thể khiến nợ xấu của ngân hàng gia tăng và ngân hàng phải chấp nhận RRTK cao hơn. Do đó, trong thời kỳ này ngân hàng sẽ tăng cường nắm giữ nhiều tài sản thanh khoản thay vì cho vay nhiều. Trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế, môi trường đầu tư được cải thiện, ngân hàng có xu hướng giảm dự trữ thanh khoản để có thể cho vay nhiều hơn. Cùng lúc này, lượng vốn huy động trong nền kinh tế sẽ giảm, do đó ngân hàng sẽ sử dụng cung thanh khoản chủ yếu từ việc đi vay trên thị trường liên ngân hàng và NHTW.

b. Môi trường pháp lý

Hoạt động QTTK của ngân hàng thường được điều chỉnh rất chặt chẽ bởi các quy định pháp luật. Do đó, nếu các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến vấn đề thanh khoản và QTTK của ngân hàng được ban hành đồng bộ, rõ ràng, đầy đủ và có tính hiệu lực thì các NHTM sẽ tuân thủ và thực hiện QTTK hiệu quả hơn.

c. Môi trường chính trị

Môi trường chính trị thể hiện ở thể chế chính trị, sự ổn định hay biến động về chính trị tại quốc gia. Môi trường chính trị ổn định tạo niềm tin cho người dân, từ đó giúp ngân hàng: (i) Tránh được những cú sốc do hiện tượng rút tiền hàng loạt,

(ii) tăng cơ hội trong cho vay và huy động vốn, dẫn đến áp lực lên cung - cầu thanh khoản của ngân hàng giảm bớt tạo điều kiện thuận lợi cho QTTK của ngân hàng.

d. Môi trường văn hóa xã hội

Môi trường văn hóa xã hội thể hiện ở đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, truyền thống, trình độ nhận thức, học vấn chung…Những yếu tố giúp NHTM chủ động trong việc xây dựng các chính sách, quy trình QTTK và thiết kế mô hình QTTK phù hợp với đặc điểm văn hóa của từng địa phương, quốc gia.

e. Sự phát triển của thị trường tài chính

Thị trường tài chính là nơi diễn ra quá trình trao đổi mua bán các công cụ tài chính và công cụ thanh toán. Thị trường tài chính phát triển sẽ giúp các ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá, nghiệp vụ phái sinh… một cách linh hoạt và kịp thời hơn. Thông qua các nghiệp vụ này, ngân hàng có thể nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu kỳ hạn TSC - TSN; thực hiện mua bán nợ dễ dàng từ đó giúp ngân hàng đảm bảo khả năng thanh khoản.

1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan

a. Năng lực quản trị thanh khoản của ngân hàng

Năng lực QTTK của ngân hàng thể hiện ở khả năng xây dựng chiến lược QTTK và lựa chọn phương pháp QTTK, mô hình tổ chức QTTK phù hợp với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh, nếu một ngân hàng có ban lãnh đạo điều hành sắc sảo, nhạy bén, đề ra được các mục tiêu cụ thể, phân công

công việc rõ ràng, đúng định hướng và lựa chọn được phương pháp quản trị thích hợp thì QTTK của ngân hàng sẽ thành công.

b. Mô hình tổ chức quản trị thanh khoản

Việc ngân hàng thực hiện thành công chiến lược, chính sách QTTK phụ thuốc rất nhiều vào mô hình tổ chức QTTK của họ. Nếu mô hình tổ chức QTTK có sự phân công rõ ràng tránh nhiệm của từng phòng ban, bộ phận liên quan và tạo được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng thì QTTK sẽ thông suốt, ngân hàng có thể xử lý những tình huống khủng hoảng thanh khoản chủ động, linh hoạt và kịp thời, từ đó giúp cho ngân hàng giảm chi phí, tạo được niềm tin cho khách hàng và nâng cao vị thế của ngân hàng.

c. Hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ quản trị thanh khoản

Để thực hiện nhận diện, đo lường, kiểm soát và giám sát thanh khoản hiệu quả đòi hỏi ngân hàng phải có hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác, cập nhật... Nếu hệ thống cơ sở dữ liệu đảm bảo tập trung, thống nhất giữa các chi nhánh với Trụ sở chính sẽ tạo điều kiện giúp ngân hàng có thể cập nhật số liệu bất cứ thời điểm nào, từ đó xác định chính xác trạng thái thanh khoản của ngân hàng để có biện pháp phòng ngừa và xử lý khó khăn thanh khoản, RRTK kịp thời.

d. Chất lượng nguồn nhân lực thực hiện quản trị thanh khoản

Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện ở đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, kỹ năng với vị trí công việc. Chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng có tác động quan trọng tới QTTK. Cụ thể:

Thứ nhất, vấn đề thanh khoản và QTTK quyết định đến sự sống còn của NHTM - các cán bộ liên quan đến QTTK phải nhận thức đúng đắn điều này, từ đó giúp họ có cái nhìn khoa học về QTTK.

Thứ hai, các kỹ thuật phân tích thanh khoản ngày càng hiện đại, do đó với cán bộ được đào tạo bài bản thì họ sẽ biết nắm bắt nhanh để thực hiện.

Thứ ba, khi các yếu tố khách quan (kinh tế vĩ mô, chính trị, xã hội) có diễn biến xấu, ảnh hưởng tới tâm lý khách hàng thì cán bộ QTTK có sự nhạy cảm với những biến động đó sẽ có thể đưa ra sự phán đoán, nhận dạng, tham mưu các quyết định quan trọng về tình hình thanh khoản của ngân hàng.

e. Quy mô, uy tín ngân hàng trong hệ thống

Quy mô, uy tín, tầm ảnh hưởng của ngân hàng trong hệ thống thể hiện ở khả năng tiếp cận thị trường để đáp ứng yêu cầu vốn thanh khoản. Các ngân hàng có quy mô lớn thường có ưu thế hơn các ngân hàng nhỏ: dễ dàng huy động vốn trên thị trường, vay tại các TCTD và NHTW khi cần thiết.

f. Khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong hệ thống

Khả năng cạnh tranh của ngân hàng thể hiện ở chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng; thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng; cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng; lãi suất và phí dịch vụ. Khi ngân hàng có khả năng cạnh tranh tốt thì huy động vốn dễ dàng hơn, đồng thời tạo được mối quan hệ lâu dài với khách hàng hơn. Từ đó giúp ngân hàng cải thiện thanh khoản khi cần thiết.

g. Sự minh bạch thông tin của các ngân hàng thương mại

Thực tế các vụ phá sản của các NHTM trên thế giới cho thấy một ngân hàng dù có lịch sử lâu đời và quy mô lớn vẫn có thể gặp RRTK dẫn đến đổ vỡ do tin đồn thất thiệt xuất hiện trong công chúng. Nguyên nhân sâu xa của sự đổ vỡ đó một phần xuất phát từ sự thiếu minh bạch thông tin về ngân hàng đã làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của khách hàng. Ở tầm vĩ mô, hệ thống ngân hàng cũng có thể gặp bất ổn lớn do điều này gây nên. Do đó, sự minh bạch thông tin là yếu tố quan trọng trong QTTK của NHTM và cần được quản lý bởi NHTW.

1.3. Kinh nghiệm quản trị thanh khoản của một số ngân hàng và bài học cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam

1.3.1. Một số tình huống trong quản trị thanh khoản của một số ngân hàng thương mại

Thưc tiễn đã chứng minh, vấn đề trọng tâm của QTTK là quản trị RRTK. Bởi vì, các NHTM luôn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận nên thường đối mặt với RRTK. Việc xử lý các tình huống căng thẳng về thanh khoản hoặc RRTK là vấn đề cốt lõi, là mối quan tâm và mục tiêu hàng đầu trong QTTK của NHTM. Vì vậy, theo quan điểm của NCS việc nghiên cứu kinh nghiệm xử lý các tình huống khó khăn thanh khoản, RRTK của một số ngân hàng trong và ngoài nước để rút ra bài học QTTK cho Agribank là hết sức có ý nghĩa [20, 15, 88]:

1.3.1.1. Tình huống tại Continental Illinois National Bank and Trust Company (năm 1984)

Continental Illinois National Bank and Trust Company là ngân hàng lớn thứ bảy tại Hoa Kỳ và lớn nhất ở Trung Tây, có trụ sở tại Chicago với tài sản khoảng 40 tỷ USD.

Cuối những năm 1970, ngân hàng này đã thực hiện một chiến lược tăng trưởng nhanh chóng. Đến năm 1981, nó đã trở thành người cho vay thương mại và công nghiệp lớn nhất ở Hoa Kỳ. Năm 1982, ngân hàng đã thực hiện một số khoản đầu tư rủi ro. Continental Illinois đã mua 1 tỷ USD các khoản vay liên quan đến năng lượng đầu cơ từ Ngân hàng Penn Square có trụ sở tại Oklahoma - các khoản vay có nguồn gốc từ sự bùng nổ khai thác dầu khí của thập niên 1970. Continental Illinois cũng đã đầu tư vào các nước đang phát triển, nơi đã trải qua một cuộc khủng hoảng nợ vào tháng 8/1982. Ngân hàng đã hành động để ổn định bảng cân đối kế toán của mình vào năm 1982 và 1983. Nhưng trong quý đầu tiên của năm 1984, các khoản vay không phù hợp đã đột ngột tăng 400 triệu USD lên tổng số 2,3 tỷ USD. Vào ngày 10/5/1984, những tin đồn về việc ngân hàng này mất khả năng thanh toán đã gây ra một cuộc chạy đua lớn bởi những người gửi tiền. Người gửi tiền đã rút tới hơn 10 tỷ đôla khỏi ngân hàng này chỉ trong vài ngày đầu tháng 5/1984. Continental Illinois National Bank and Trust Company do vậy bị mất thanh khoản và sụp đổ hoàn toàn.

Sau đó, Continental Illinois tiếp tục hoạt động dưới quyền sở hữu chủ yếu của Chính phủ và ngân hàng đã được Bank of America mua vào năm 1994.

Continental Illinois National Bank and Trust Company đã gặp RRTK dẫn đến sụp đổ do:

Thứ nhất, nợ xấu từ những khoản vay cho các nhà sản xuất dầu trong thời kỳ bùng nổ dầu mỏ những năm 1980 và 1990 tại Texas của Penn Square Bank.

Thứ hai, chiến lược kinh doanh của ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hơn nữa, ngân hàng này đã lựa chọn chiến lược QTTK nợ, tức dựa chủ yếu vào nguồn thanh khoản từ vay nợ trên thị trường tiền tệ thay vì tích trữ nhiều tài sản thanh khoản.

Thứ ba, niềm tin của người gửi tiền với ngân hàng biến mất.

Xem tất cả 206 trang.

Ngày đăng: 24/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí