Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Quản Trị Rủi Ro Thanh Khoản Ở Ngân Hàng Thương Mại


1. 2. 4. Nhân tố ảnh hưởng tới quản trị rủi ro thanh khoảnngân hàng thương mại

1.2.4.1. Nhóm nhân tố chủ quan

Thứ nhất, chiến lược và phương pháp quản trị RRTK

Một ngân hàng có đủ vốn, chất lượng tín dụng tốt, nhưng nếu không thực sự quan tâm đến quản trị RRTK thì không thể kinh doanh ổn định và an toàn. Năng lực quản trị RRTK trước hết thể hiện ở việc xây dựng được chiến lược quản trị RRTK phù hợp với tình hình hoạt động của ngân hàng trong từng điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Hơn nữa, cũng phải đề ra được các mục tiêu cụ thể cũng như các bước công việc tác nghiệp để điều hành công việc theo định hướng đã được hoạch định cũng như lựa chọn được phương pháp quản trị phù hợp.

Thứ hai, quan điểm và trình độ của nhà quản trị

Sự nhận thức đúng đắn và quan điểm rõ ràng về vai trò của công tác quản trị thanh khoản sẽ giúp nhà quản trị có nhãn quan hợp lý và khoa học về hoạt động này. Xác định điều hành thanh khoản theo hướng cẩn trọng sẽ buộc nhà quản trị đánh đổi một mức sinh lời trong khối lượng vốn khả dụng của ngân hàng.

Thứ ba, trình độ công nghệ thông tin

Một hệ thống thông tin hiệu quả là không thể thiếu trong công tác quản trị RRTK. Hệ thống thông tin quản lý sẽ giúp kết nối các chi nhánh với trụ sở chính. Đặc biệt trong điều kiện ngân hàng có nhiều chi nhánh trong nhiều khu vực thị trường khác nhau, thì điều này là rất có ý nghĩa, bởi vì nếu như thông tin thiếu chính xác và không cập nhật sẽ rất khó khăn trong công tác quản lý kiểm soát và điều tiết các hoạt động kinh doanh. Một hệ thống thông tin bao gồm các bộ phận chính: Các hệ thống máy tính được nối mạng với nhau, việc báo cáo quản trị, vấn đề xử lý thông tin và ra các quyết định quản trị. Đối với những ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng thì hệ thống máy tính được nối mạng trực tuyến là điều vô cùng cùng cần thiết. Trình độ công nghệ thông tin hiện đại cung cấp những thông tin có chất lượng sẽ là điều kiện cần thiết để nhà quản trị đưa ra những quyết định về quản trị thanh khoản chính xác nhất, vì họ có khả năng kiểm soát tối ưu đối với những


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

luồng tiền vào và ra tại bất cứ thời điểm nào.

Thứ tư, kết cấu danh mục tài sản lỏng

Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 10

Tính lỏng của tài sản quyết định khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng tại thời điểm cần thiết. Những tài sản có tính lỏng cao bao gồm: (i) Tiền mặt tại quỹ và các khoản cho vay đến hạn thu nợ; (ii) Tiền gửi tại các TCTD khác;

(iii) Chứng khoán do Chính phủ phát hành; (iv) Thương phiếu, chấp phiếu và các chứng chỉ tiền gửi chuyển nhượng được; (v) Chứng khoán bán được. Với tính lỏng cao, mức sinh lời của các tài sản thường thấp hơn các khoản cho vay hay những tài sản có tính thanh khoản thấp.

Việc dự trữ các tài sản có tính thanh khoản cao để đáp ứng nhu cầu thanh khoản theo mức độ nào tùy thuộc vào: (i) Ý chí chủ quan của chính ngân hàng trên cơ sở tình hình trên thị trường tiền tệ và lòng tin của những người cho vay và việc tiên liệu NHTW và các ngân hàng khác có sẵn sàng cho vay hay không; (ii) Khả năng tạo thu nhập của danh mục tài sản cao hay thấp. Nếu đường cong lợi tức có độ dốc đi lên, thì trái phiếu Kho bạc sẽ có mức lãi suất cao hơn tín phiếu kho bạc, các nhà quản trị có xu hướng điều chỉnh kết cấu khoản mục dự trữ sơ cấp hay thứ cấp của mình. Tuy vậy, nhà quản trị cũng cần phải thường xuyên chủ động điều chỉnh kết cấu các loại tài sản cho phù hợp để đạt được các mục tiêu về thanh khoản, lợi nhuận cũng như các mục tiêu hợp lý khác.

Thứ năm, khả năng xác lập tính cân bằng giữa luồng tiền vào và ra

Đây là khả năng cân đối nguồn thanh khoản với nhu cầu thanh khoản ở ngân hàng. Để thỏa mãn nhu cầu thanh khoản, các ngân hàng phải lựa chọn giữa nhiều loại tài sản - Nợ và những nguồn thanh khoản mới. Tiêu chí để lựa chọn là: (i) Tính cấp thiết của nhu cầu thanh khoản. Nếu thâm hụt dự trữ xảy ra cấp thời, thì nhà quản trị sẽ phải sử dụng thị trường tiền tệ để có thể có những khoản vay qua đêm hay vay từ NHTW. Nhưng nếu yêu cầu dự trữ không cấp thiết, thì có thể đáp ứng thông qua việc bán các chứng chỉ tiền gửi, bán tài sản; (ii) Khả năng tiếp cận thị trường vốn để đáp ứng yêu cầu thanh khoản. Không phải tất cả các ngân hàng đều có khả năng tiếp cận thị trường vốn như nhau. Các ngân hàng lớn thường có ưu thế


hơn các ngân hàng nhỏ. Vì thế, các nhà quản trị ngân hàng cần phải hết sức chú ý đặc điểm này để có những lựa chọn phù hợp; (iii) Tương quan về chi phí và rủi ro giữa các nguồn vốn. Chi phí của mỗi nguồn vốn thường xuyên thay đổi, do vậy, với các yếu tố khác không đổi, nhà quản trị sẽ phải sử dụng các nguồn vốn đáng tin cậy, với chi phí thấp nhất và do vậy, sẽ phải theo sát thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán để có thể nắm bắt kịp thời diễn biến của lãi suất; (iv) Triển vọng của lãi suất và thu nhập. Khi lập kế hoạch ứng phó với RRTK, nhà quản trị thường dùng nguồn vốn có lãi suất thấp. Thông thường, với một đường thu nhập dốc lên, hoạt động này có nghĩa là vay vốn chi phí thấp trên thị trường ngắn hạn và cho vay tại mức lãi suất dài hạn cao hơn. Tuy nhiên, điều này sẽ đặt các ngân hàng trước nguy cơ rủi ro cả về lãi suất và kỳ hạn; (v) Hoạt động vay nợ của Chính phủ. Hoạt động này sẽ tác động đến triển vọng lãi suất và điều kiện tín dụng trên thị trường: Nếu Chính phủ tăng vay nợ, sẽ làm tăng lãi suất, thu hẹp tín dụng, khiến tăng chi phí vay vốn cho mục tiêu quản lý thanh khoản, gây khó khăn cho công tác quản lý RRTK của ngân hàng; (vi) Khả năng bảo vệ. ngân hàng sử dụng nguồn vốn vay nợ quy mô lớn cần cảnh giác với vấn đề thiếu chắc chắn trong lãi suất – yếu tố quyết định chi phí vay nợ để tài trợ thanh khoản trong tương lai và rất có thể ngân hàng sẽ phải trả giá đắt để đáp ứng nhu cầu về thanh khoản; (vii) Các quy định áp dụng với nguồn thanh khoản. ngân hàng không thể sử dụng mọi nguồn thanh khoản như nhau. Ví dụ: yêu cầu dự trữ tiền gửi và những quy định trong việc vay vốn từ cửa sổ chiết khấu hạn chế các ngân hàng vay từ nguồn này và buộc phải tìm kiếm từ các nguồn vốn vay khác nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản.

1.2.4.2. Nhóm nhân tố khách quan

Thứ nhất, sự biến động của luồng tiền

Ảnh hưởng lớn tới tình hình thanh khoản của ngân hàng. Luồng tiền cần được xác định ở cả 2 khía cạnh: Luồng tiền vào và luồng tiền ra, luồng tiền vào ảnh hưởng đến nguồn cung thanh khoản trong khi luồng tiền ra ảnh hưởng tới cầu thanh khoản của ngân hàng. Nhìn chung, cả luồng tiền vào và luồng tiền ra đều bị tác động mạnh bởi các yếu tố: tính thời vụ, chu kỳ và xu hướng. Ngoài ra, từng dòng


tiền trong luồng tiền lại bị chi phối bởi các nhân tố khác.

Thứ hai, các biến cố bất thường

Tác động lớn đến cầu thanh khoản của ngân hàng: Nếu người gửi tiền mất niềm tin về khả năng chi trả của ngân hàng, lập tức sẽ rút tiền, nhu cầu thanh khoản tăng đột biến khiến ngân hàng không thể đáp ứng được và những khoản vay cứu cánh từ NHTW sẽ là một giải pháp cuối cùng để giúp ngân hàng có thể thoát khỏi nguy cơ phá sản.

Thứ ba, hiệu ứng rút tiền dây chuyền trong giai đoạn khủng hoảng tài chính

Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, các ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng thanh toán. Do có tính hệ thống nên nếu một ngân hàng nào đó có RRTK, sẽ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền đối với hoạt động của các ngân hàng khác. Hậu quả có thể là hàng loạt ngân hàng bị phá sản trong thời gian ngắn.

Thứ tư, ảnh hưởng trực tiếp từ các loại rủi ro khác

RRTD được coi là loại rủi ro có ảnh hưởng lớn nhất tới RRTK ngân hàng. Nợ quá hạn, tổn thất tín dụng ở mức độ cao sẽ làm giảm nguồn thanh khoản của mỗi ngân hàng và dẫn đến khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền của ngân hàng bị hạn chế theo. Ngoài ra, rủi ro ngoại hối, rủi ro thị trường cũng gây ảnh hưởng tới RRTK ở ngân hàng.

Thứ năm, chính sách tiền tệ của NHTW

NHTW sử dụng các công cụ chính sách (trực tiếp và gián tiếp) để tác động vào thị trường tiền tệ, nhằm đạt được các mục tiêu kỳ vọng. Một trong những công cụ đó là dự trữ bắt buộc. Tùy từng quốc gia khác nhau mà NHTW yêu cầu các ngân hàng phải thực hiện theo tỷ lệ % nhất định quy định trên số dư tiền gửi trong một khoảng thời gian nhất định. Tỷ lệ này cũng thường xuyên thay đổi theo quy mô và tính chất hoạt động của từng ngân hàng. Tùy theo từng quốc gia mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể được duy trì dưới dạng tiền mặt tại quỹ hay số dư tiền gửi tại NHTW. Thông thường NHTW không trả lãi cho số dư dự trữ này, nên chúng không mang lại thu nhập trong khi ngân hàng huy động thì phải trả lãi. Chính vì vậy, nhà quản trị luôn phải kiểm soát và điều chỉnh chúng sao cho số dự thực tế bình quân của tiền


gửi tại NHTW trong kỳ duy trì tối thiếu bằng với số dư phải thực hiện được xác định trong kỳ tính toán. Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm thay đổi về yêu cầu vốn dự trữ và sẽ tác động đến khả năng thanh khoản của mỗi ngân hàng.

Thứ sáu, các yếu tố vĩ mô và chính sách điều hành của chính phủ

Các chỉ số vĩ mô đươc cho là có sự quan hệ mật thiết với rủi ro thanh khoản của ngân hàng. Theo Angora và Roulet (2011) thì tốc độ tăng trưởng kinh tế có tác động làm giảm RRTK [62]. Vì khi nền kinh tế tăng trưởng cao thì sẽ khiến cho nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư tăng theo, vì vậy người dân sẽ có xu hướng gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn. Bên cạnh đó, trong giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng mạnh, thì các doanh nghiệp sẽ hoạt động có hiệu quả hơn, sinh lời nhiều nên khả năng trả được nợ cho ngân hàng cũng tốt hơn, từ đó dẫn đến nguồn cung thanh khoản trong ngân hàng tăng lên, làm cho rủi ro thanh khoản giảm xuống. Bên cạnh đó, lạm phát được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó. Theo Saunders và Corrnett (2007), tỷ lệ lạm phát tỷ lệ thuận với RRTK, do khi lạm phát tăng, chi phí thực của việc vay tiền giảm xuống, nên trong trường hợp này đối với đa số mọi người thì đi vay sẽ có lợi hơn là cho vay, vì người đi vay sẽ kiếm được một khoản lợi nhuận do giá hàng hóa được mua bằng tiền đi vay tăng lên. Cho vay tăng khiến cho RRTK trong hệ thống ngân hàng tăng [124].

Các chính sách điều hành hoạt động ngân hàng nói chung càng chặt chẽ sẽ khiến các ngân hàng phải nắm giữ tài sản thanh khoản nhiều hơn, trong đó những ngân hàng mà bị bắt buộc phải công bố các thông tin chính xác về tình hình hoạt động sẽ tự động phải tăng tài sản thanh khoản trong ngân hàng mình. Theo Federico (2012), các chỉ số này càng lớn sẽ khiến cho RRTK giảm, do các quy định về việc hoạt động của ngân hàng càng được nới lỏng sẽ khiến các ngân hàng càng chấp nhận rủi ro càng lớn bằng cách mở rộng phạm vi hoạt động của ngân hàng [89].


1.3. KINH NGHIỆM QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN Ở CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ BÀI HỌC CHO NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

1.3.1. Kinh nghiệm quản trị rủi ro thanh khoản từ các ngân hàng thương mại

1.3.1.1. Kinh nghiệm từ Deustche Bank – Cộng hòa Liên bang Đức

Về phân định cơ cấu và quyền hạn quản trị RRTK

Hội đồng quản trị:

(1) Định hướng chiến lược thanh khoản, vạch rõ khẩu vị RRTK dưới sự đề

xuất và hỗ trợ của Ủy ban Nguồn vốn và Rủi ro;

(2) Xem xét, sửa đổi và phê chuẩn hàng năm các giới hạn được áp dụng vào công tác đo lường và kiểm soát RRTK, nguồn vốn dài hạn và kế hoạch phát hành của ngân hàng.

Phòng nguồn vốn:

(1) Quản trị RRTK theo chiến lượng đã được đề ra với khung hoạt động được thiết kế để nhận biết, đo lường và đối phó với RRTK của toàn bộ ngân hàng;

(2) Theo dõi trạng thái thanh khoản hàng tuần theo một bảng chấm điểm thanh khoản theo các nội dung:

- Hàng ngày thực hiện quản lý nội nhật các khoản nợ và tiền gửi đến hạn, dự báo các dòng tiền và tính đến khả năng tiếp cận nguồn vốn từ NHTW.

- Quản lý trong trung và dài hạn: liên quan đến khả năng huy động và cơ cấu vốn của ngân hàng.

Bảng theo dõi trạng thái thanh khoản của toàn bộ ngân hàng sẽ phải báo cáo cho Ban điều hành của ngân hàng này.

Các biện pháp và công cụ được sử dụng trong quản trị RRTK

Sử dụng thang đáo hạn:

Deutsche Bank đối ứng tài sản và nợ theo thời gian đáo hạn, có sự điều chỉnh theo đặc điểm thanh khoản thực tế của tài sản kinh doanh và các dấu hiệu được kéo dài hoặc gia hạn của tài sản và vốn. Thang đáo hạn này cho biết sự thặng dư hay thâm hụt tài sản so với nợ tại mỗi nhóm thời gian, hỗ trợ việc quản lý RRTK.


Định giá chuyển nội bộ:

Cơ chế của ngân hàng đảm bảo: (i) Giá trị của tài sản phù hợp với RRTK tương ứng; (ii) Giá trị nợ phù hợp với thời gian đáo hạn; (iii) Rủi ro dự phòng phù hợp với chi phí duy trì lượng thanh khoản tương xứng để tài trợ các yêu cầu bất thường về tiền mặt. Nhờ khung định giá này, ngân hàng phân bổ vốn, chi phí RRTK và lợi nhuận tới các chi nhánh, tạo động lực tài chính phù hợp với các hướng dẫn quản lý RRTK.

Thử nghiệm khả năng chi trả và phân tích kịch bản:

Việc thử nghiệm này đóng vai trò quan trọng trong quản trị RRTK, được sử dụng nhằm đánh giá tầm ảnh hưởng của các căng thẳng thanh khoản bất ngờ, từ đó xây dựng các bước cần thiết để có thể bù đắp nguồn cung thanh khoản thiếu hụt trong từng kịch bản, là cơ sở để ngân hàng lập kế hoạch tài trợ dự phòng.

Các kịch bản của Deustche Bank dựa trên các sự kiện lịch sử như sự sụp đổ thị trường chứng khoán Mỹ năm 1987, căng thẳng thanh khoản Mỹ năm 1990, tấn công khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 - 2009, các case-study và các sự kiện giả định khác. Các kịch bản cũng gồm các sự kiện liên quan đến ngân hàng (như ngân hàng bị tụt hạng tín nhiệm…), đến thị trường (rủi ro mang tính hệ thống) cũng như việc kết hợp cả hai sự kiện này. Thử nghiệm được thực hiện hàng tháng trên các danh mục tiềm ẩn rủi ro trong và ngoài bảng cân đối. Ngoài ra, hàng quý, ngân hàng còn nghiên cứu tầm ảnh hưởng của những căng thẳng thanh khoản giả định kéo dài đến 01 năm, cùng với các biện pháp giảm nhẹ tổn thất cần thiết.

Chiến lược duy trì tài sản thanh khoản:

Biện pháp đối phó trong trường hợp xấu là nắm giữ một lượng dự trữ bao gồm các tài sản lưu kho, tiền mặt tồn quỹ và dự trữ thanh khoản chiến lược. Khối lượng và tỉ lệ từng loại được xác định dựa vào kết quả của cuộc thử nghiệm khả năng chi trả. Ngân hàng lọc ra các tài sản thanh khoản nhất trong ba nhóm trên để thành lập Quỹ dự trữ thanh khoản. Đến cuối năm 2010, quỹ này đạt tới 145 tỷ EUR.


Chiến lược đa dạng hóa nguồn vốn:

Đa dạng hóa nguồn vốn về nhà đầu tư, địa phương, sản phẩm và công cụ đầu tư. Nguồn vốn cơ bản của ngân hàng đến từ thị trường bán lẻ và các khách hàng của ngân hàng trong thanh toán. Một nguồn tài trợ khác là các khoản tiền gửi và vay nợ từ thị trường bán buôn.

Hệ thống thông tin, báo cáo nội bộ:

Hệ thống báo cáo theo dõi các dòng tiền trong vòng 18 tháng tiếp theo và được xây dựng logic, tạo điều kiện cho các nhà quản lý nhanh chóng và dễ dàng tiếp cận các thông số và trạng thái thanh khoản ngắn hạn của ngân hàng tại từng địa phương, vùng lãnh thổ và tổng hợp toàn cầu được phân chia theo loại tiền, loại sản phẩm dịch vụ và theo các ban chức năng [141].

1.3.1.2. Quản trị RRTK tại Lloyds Banking Group – Anh Quốc

Cơ cấu và quyền hạn

Hội đồng quản trị xem xét và phê duyệt khẩu vị rủi ro đối với từng loại rủi ro, bao gồm cả RRTK theo năm. Hội đồng quản lý rủi ro tập đoàn thuộc sự quản lý của Hội đồng quản trị, có trách nhiệm giám sát việc triển khai, phát triển của khung quản lý rủi ro, khẩu vị rủi ro và các chính sách tổng thể.

Hội đồng ALCO của tập đoàn nằm dưới sự điều hành của Hội đồng quản trị của tập đoàn, có trách nhiệm quản lý xây dựng chính sách chiến lược và khung quản lý RRTK.

Khối nguồn vốn trực thuộc Giám đốc tài chính có trách nhiệm trực tiếp kinh doanh và quản lý nguồn vốn trên cơ sở thực hiện các chính sách được ALCO đề ra.

Các chiến lược, biện pháp và công cụ cụ thể

Chính sách thanh khoản

Các chính sách được thiết kế để nhận dạng các mối lo ngại về RRTK ngay từ giai đoạn đầu, từ đó có thể kịp thời có các hành động xoa dịu tránh diễn biến thành khủng hoảng trầm trọng hơn. Kế hoạch tài trợ dự phòng của tập đoàn cũng có mặt trong chính sách này.

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 13/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí