niềm tin vào hệ thống ngân hàng, từ đó có thể dẫn đến mất niềm tin vào khả năng điều hành lãnh đạo của nhà nước và do vậy làm đất nước rơi vào bất ổn.
RRTD gây bất ổn cho kinh tế - xã hội của quốc gia
RRTD xảy ra có thể dẫn đến sự bất ổn của nền kinh tế - xã hội của quốc gia. RRTD nếu xảy ra hàng loạt hoặc lan tỏa trong toàn bộ hệ thống ngân hàng sẽ làm mất niềm tin của người gửi tiền, từ đó có thể xảy ra tình huống người gửi tiền rút tiền hàng loạt tại nhiều ngân hàng, hoặc thậm chí RRTD xảy ra tại một ngân hàng cũng có thể gây ra tình huống rút tiền ở nhiều ngân hàng do hiệu ứng tâm lý của người gửi tiền, hậu quả có thể làm ngân hàng bị khủng hoảng thanh khoản, thậm chí là sụp đổ. Lúc này, nhiệm vụ cung cấp vốn cho nền kinh tế trở nên khó khăn hoặc không thể thực hiện, từ đó sẽ gây ra khủng hoảng vốn trong nền kinh tế và tạo nên những bất ổn cho nền kinh tế.
RRTD còn có thể gây mất ổn định xã hội vì khi RRTD làm người gửi tiền giảm hoặc mất niềm tin vào ngân hàng thì họ sẽ giảm hoặc không gửi tiền vào ngân hàng, khi đó ngân hàng khó tiếp cận được nguồn vốn huy động. Khi ngân hàng không tiếp cận được nguồn vốn huy động dồi dào từ dân cư thì tất yếu việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các chủ thể kinh tế cũng trở nên khó khăn và do vậy làm hoạt động sản xuất kinh doanh bị trì trệ. Hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế giảm thể hiện sự suy giảm của nền kinh tế, từ đó dẫn đến sự giảm sút trong tiêu dùng và làm thất nghiệp gia tăng, do vậy gây mất ổn định xã hội và chất lượng cuộc sống bị giảm sút.
RRTD làm tăng chi phí và tốn nhiều thời gian để giải quyết
Sau thời gian tích tụ thì khối lượng nợ xấu khổng lồ của hệ thống NHTM Việt Nam đã bùng phát vào năm 2011 – 2012. Nợ xấu tăng cao đã đe dọa đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng, do vậy giải quyết nợ xấu đã được đặt làm nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống ngân hàng. Cả Quốc Hội, Chính phủ và NHNN đã đẩy mạnh xử lý nợ xấu thông qua thực hiện quyết liệt đề án tái cơ cấu tổ chức tín dụng nhằm lành
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Các Vấn Đề Cần Quan Tâm Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Hiện Nay
- Lựa Chọn Vấn Đề Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Nhtm Việt Nam
- Tiêu Chí Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Nhóm Yếu Tố Kinh Tế Vĩ Mô Ảnh Hưởng Đến Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng
- Phân Tích Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Nhtm Việt Nam
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
mạnh hóa ngân hàng, thành lập công ty mua bán nợ VAMC và ban hành các quyết định hỗ trợ cho việc giải quyết nợ xấu, với mục tiêu là nhanh chóng giải quyết dứt điểm khối nợ xấu này. Mặc dù, nỗ lực trong giải quyết nợ xấu của Chính Phủ và hệ thống ngân hàng đã đem lại một số kết quả khá khả quan là các ngân hàng yếu kém được thực hiện cơ cấu (sáp nhập, mua lại), tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm dần qua các năm và đến 2018 chỉ còn 1,77%, nhưng tỷ lệ nợ xấu gộp tính đến 2018 vẫn ở mức cao là 6,5%. Như vậy, sau 6 năm kể từ năm 2012 – năm nợ xấu cao đỉnh điểm – thì khối lượng nợ xấu tồn đọng vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, cho thấy khi nợ xấu xảy ra sẽ tốn nhiều thời gian và chi phí để giải quyết.
Qua phân tích các ảnh hưởng mà RRTD có thể gây ra như trên, tác giả thấy rằng việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, đồng thời kiểm soát được rủi ro tín dụng phải luôn được đặt làm trọng tâm trong hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng. Nếu xác định được đầy đủ và đo lường được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố có tác động đến RRTD thì các ngân hàng sẽ kiểm soát được RRTD và do vậy đảm bảo cho hoạt động tín dụng của ngân hàng được an toàn. Vì lý do này nên tác giả đã lựa chọn vấn đề nghiên cứu là “Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam” với kỳ vọng sẽ xác định được đầy đủ và đo lường được mức độ ảnh hưởng đến RRTD của các yếu tố có tác động đến RRTD, từ đó gợi ý các giải pháp giúp NHTM Việt Nam hạn chế RRTD hiệu quả.
Kết luận chương 2
Sau khi thực hiện tái cơ cấu thì số lượng của các NHTM đã được thu hẹp, các ngân hàng yếu kém đã được hợp nhất, sáp nhập và NHNN mua lại và do vậy hệ thống ngân hàng hiện nay đã được lành mạnh và an toàn hơn. Một số vấn đề cần quan tâm của NHTM Việt Nam cũng đã được tác giả trình bày. Lý do chọn vấn đề rủi ro tín dụng tại NHTM Việt Nam để nghiên cứu cũng đã được tác giả giải thích.
CHƯƠNG 3
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Cơ sở lý thuyết
3.1.1 Khái quát rủi ro tín dụng ngân hàng
3.1.1.1 Khái niệm rủi ro tín dụng
Theo Joel Bessic (2010) thì rủi ro tín dụng là những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng vay mất khả năng chi trả khoản nợ vay hay khoản vay bị giảm sút chất lượng.
Tiếp cận từ một số quan điểm thì tác giả cho rằng: rủi ro tín dụng là tổn thất của các ngân hàng – có thể là tổn thất về tài chính hoặc phi tài chính – mà nguyên nhân là do khách hàng vay không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ khi khoản vay đến hạn theo các thỏa thuận, cam kết trong hợp đồng tín dụng và các văn bản có liên quan.
3.1.1.2 Phân loại rủi ro tín dụng
Theo Nguyễn Văn Tiến và Nguyễn Mạnh Hùng (2017) thì cách phân loại rủi ro tín dụng chủ yếu gồm:
* Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro:
- Rủi ro giao dịch: Rủi ro này phát sinh trong quá trình thực hiện cấp tín dụng của các ngân hàng. Nguyên nhân phát sinh rủi ro này là do có những sai sót xảy ra khi tác nghiệp thẩm định khách hàng, thẩm định tài sản bảo đảm, phê duyệt cấp tín dụng, giải ngân, kiểm soát hoặc theo dõi hồ sơ sau khi khách hàng đã nhận tiền vay. Rủi ro giao dịch gồm có rủi ro lựa chọn đối nghịch, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn đối nghịch: Rủi ro này phát sinh do hiện tượng bất cân xứng thông tin trước khi phê duyệt cấp tín dụng cho khách hàng.
+ Rủi ro bảo đảm: Rủi ro này phát sinh do những sai sót trong quá trình thực hiện thủ tục bảo đảm cho khoản vay như các sai sót liên quan đến điều khoản của hợp đồng bảo đảm, xác định sai các bên tham gia bảo đảm, thực hiện sai quy định
nhận bảo đảm, xác định sai tỷ lệ cho vay/tài sản bảo đảm và loại tài sản bảo đảm có tiềm ẩn nhiều rủi ro như khó thanh khoản, đang có tranh chấp…
+ Rủi ro nghiệp vụ: Là rủi ro phát sinh do các sai sót hoặc hạn chế trong việc quản lý khoản vay và điều hành hoạt động cho vay của các ngân hàng, bao gồm cả việc giải quyết các khoản nợ vay thuộc diện cảnh báo nợ xấu hoặc các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục tín dụng: Rủi ro này phát sinh do có những thiếu sót hoặc hạn chế khi quản lý danh mục tín dụng của các ngân hàng. Rủi ro này gồm có:
+ Rủi ro nội tại: là rủi ro phát sinh do các yếu tố hoặc các đặc điểm bên trong của mỗi ngành nghề, lĩnh vực kinh tế hoặc của từng khách hàng/nhóm khách hàng riêng lẻ.
+ Rủi ro tập trung: Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng tập trung tín dụng quá mức vào một chủ thể vay như lĩnh vực kinh tế, vùng hay khu vực địa lý nào đó hoặc một hay một nhóm các khách hàng.
* Căn cứ vào mức độ tổn thất:
- Rủi ro đọng vốn: Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng chậm thu hồi được vốn vay khi đã đến kỳ hạn trả nợ theo các hợp đồng tín dụng và các văn bản đã ký kết khi cấp tín dụng. Rủi ro này có thể gây khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lý vốn vay và thanh khoản.
- Rủi ro mất vốn: Khi khách hàng mất khả năng trả nợ (bao gồm cả vốn gốc, lãi vay hoặc các chi phí khác có liên quan) thì ngân hàng sẽ đối diện với rủi ro mất vốn. Rủi ro này rất nguy hiểm vì làm tăng chi phí do phải xử lý nợ nên làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, mặt khác rủi ro này cũng làm tăng dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng.
* Căn cứ nguyên nhân khách quan hay chủ quan
- Rủi ro khách quan: Là loại rủi ro mà nguyên nhân phát sinh nằm ngoài ý chí mong muốn của ngân hàng hoặc của khách hàng, chẳng hạn như các biến cố bất khả kháng liên quan đến người vay, đến ngân hàng hoặc do thiên nhiên gây ra như do động đất, bão lụt, cháy nổ… dẫn đến món vay bị tổn thất.
- Rủi ro chủ quan: Là các rủi ro phát sinh do nguyên nhân chủ quan từ khách hàng hay ngân hàng có thể là vô tình hoặc là cố ý mà gây ra tổn thất tín dụng.
* Căn cứ vào giai đoạn phát sinh rủi ro
Được phân chia căn cứ vào giai đoạn phát sinh khoản vay, gồm:
- Rủi ro trước khi cho vay: Là các rủi ro phát sinh khi phê duyệt cho vay các khoản vay có sai sót khi lập hồ sơ, phân tích và thẩm định khách hàng vay, dẫn đến cho vay khách hàng không đáp ứng được điều kiện cho vay và khách hàng không có đủ khả năng trả nợ.
- Rủi ro trong và sau khi cho vay: Là các rủi ro phát sinh trong quá trình giải ngân cho khách hàng và sau khi giải ngân cho khách hàng, mà nguyên nhân có thể là giải ngân cho khách hàng sai tiến độ, sai phương thức hoặc không kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng…
3.1.1.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng phát sinh do nhiều nguyên nhân nhưng theo Nguyễn Văn Tiến và Nguyễn Mạnh Hùng (2017), có thể gói gọn trong 3 nguyên nhân chủ yếu gồm:
* Nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng vay vốn:
- Sử dụng vốn sai mục đích: Để được cấp tín dụng thì phương án và mục đích sử dụng vốn vay phải được xác định ngay từ đầu và các khách hàng sau khi nhận tiền vay phải sử dụng tiền vay đúng với các phương án và mục đích vay này. Tuy nhiên, có thể do cố tình ngay từ đầu hoặc chỉ phát sinh ý định sau khi nhận tiền vay, khách hàng đã không sử dụng tiền vay đúng với mục đích vay vốn ban đầu và vì vậy dẫn đến việc làm mất tiền và không trả lại tiền vay cho ngân hàng, từ đó gây ra tổn thất cho ngân hàng.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi các khách hàng vay vốn với mục đích kinh doanh, nhưng khách hàng không có hoặc thiếu khả năng quản lý, điều hành kinh doanh – nhất là ban lãnh đạo các doanh nghiệp - thì sẽ dễ dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh, do vậy mất khả năng trả nợ cho ngân hàng và gây ra tổn thất cho ngân hàng.
- Thiếu thiện chí trong việc trả nợ vay: Sau khi nhận tiền vay thì người đi vay chậm trả nợ vay hoặc không trả nợ vay như đã thỏa thuận với ngân hàng. Nguyên nhân có thể do người đi vay cố tình chây ỳ trong việc trả nợ cho ngân hàng hoặc ngay từ đầu người đi vay đã có ý định lừa đảo ngân hàng. Lúc này, ngân hàng sẽ đối diện với rủi ro tín dụng lớn vì người đi vay không có thiện chí trả nợ và trường hợp phải bán tài sản để thu hồi nợ vay thì ngân hàng có thể gặp tình huống người đi vay không hợp tác, do vậy ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn để thu hồi nợ vay.
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Thực hiện kiểm tra, giám sát nội bộ thiếu chặt chẽ: Các sai sót, sai phạm, hạn chế trong cấp tín dụng của ngân hàng luôn cần phải được phát hiện kịp thời và xử lý ngay để hạn chế hoặc không gây ra rủi ro tín dụng. Nếu việc kiểm tra, giám sát được các ngân hàng thực quy định chặt chẽ và được thực hiện nghiêm túc thì các rủi ro sẽ được phát hiện và xử lý kịp thời nên sẽ không gây ra tổn thất cho ngân hàng hoặc nếu có thì tổn thất sẽ được hạn chế.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ/đạo đức của cán bộ yếu kém: Cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ giỏi và đạo đức nghề nghiệp sẽ hạn chế được các sai sót trong khi thực hiện nghiệp vụ cho vay như xử lý thông tin thiếu chính xác, thẩm định sai nguồn thu nhập trả nợ, thẩm định sai tình trạng tài chính của khách hàng, móc ngoặc với khách hàng để lừa đảo ngân hàng…nên hạn chế được rủi ro, tổn thất cho ngân hàng. Ngược lại, trình độ của cán bộ yếu kém sẽ dễ gây ra sai sót hoặc bị khách hàng lợi dụng để lừa đảo ngân hàng.
- Chưa nghiêm túc giám sát và quản lý khoản vay sau khi cho vay: Mặc dù các ngân hàng đều có các quy định, quy trình liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát sau cho vay, tuy nhiên các quy định này thường bị cán bộ ngân hàng thực hiện theo kiểu hình thức, không quan tâm đến công tác kiểm tra giám sát sau cho vay hoặc cố tình lách quy định của ngân hàng, do vậy không phát hiện kịp thời các vi phạm, các bất ổn trong hoạt động kinh doanh, sự suy yếu nguồn thu nhập trả nợ…của khách hàng sau khi khách hàng đã nhận tiền vay nên không thể can thiệp kịp thời và dẫn đến khoản vay không được trả đúng hạn hoặc thậm chí ngân hàng bị mất vốn.
- Trao đổi thông tin và phối hợp của các ngân hàng thương mại chưa chặt chẽ: Việc thiếu trao đổi thông tin có thể dẫn đến một khách hàng được cho vay bởi nhiều ngân hàng nhưng vì không phối hợp hoặc không trao đổi thông tin với nhau nên tổng số tiền cho vay đối với khách hàng vượt quá khả năng thanh toán của khách hàng hoặc cho vay một khách hàng đang có tình hình trả nợ không tốt tại một ngân hàng khác. Mặc dù tại Việt Nam có Trung tâm tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC) cung cấp thông tin liên quan đến dư nợ tín dụng của các khách hàng tại các TCTD. Tuy nhiên, do sự chậm trễ trong việc gửi thông tin tín dụng đến CIC của một số ngân hàng nên rất nhiều trường hợp tình trạng khoản nợ không được phản ánh kịp thời lên CIC, dẫn đến một (một số) ngân hàng cho khách hàng đang có nợ dưới chuẩn vay vốn và sau đó khoản nợ này xảy ra rủi ro tín dụng
- Bất cân xứng thông tin trong cấp tín dụng: Khi không có đầy đủ thông tin khi ra quyết định cấp tín dụng sẽ có thể đưa ra một quyết định cho vay không chính xác như cho vay các khách hàng không đủ điều kiện, cho vay các khách hàng có nguồn trả nợ kém hay cho vay các khách hàng không thiện chí trả nợ…hoặc khi phát hiện có rủi ro nhưng vì thiếu thông tin nên những giải pháp để xử lý rủi ro được đưa ra thiếu chính xác dẫn đến rủi ro được xử lý không hiệu quả hoặc rủi ro không xử lý được và khi đó tổn thất của ngân hàng sẽ thực sự xảy ra.
- Tăng trưởng tín dụng quá mức: Tăng trưởng tín dụng quá mức (tăng trưởng tín dụng nóng) làm cho rủi ro tín dụng tăng lên. Thông thường, khả năng tài chính hay nhu cầu vốn của khách hàng khó tăng đột biến, trong khi ngân hàng đứng trước áp lực tăng trưởng tín dụng nhanh sẽ dễ dẫn đến hành động lựa chọn khách hàng kém kỹ càng. Áp lực tăng trưởng cũng có thể làm cho việc tuân thủ quy trình, quy định và nguyên tắc tín dụng bị lơi lỏng, từ đó dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Đặt lợi nhuận cao trước các khoản tín dụng tốt: Nguyên tắc là khách hàng có mức độ rủi ro cao thì phần bù rủi ro phải cao tương ứng. Tuy nhiên, vì áp lực lợi nhuận hoặc vì mục đích cạnh tranh nên ngân hàng lại áp dụng mức giá cho vay thấp, thậm chí là hòa vốn và bỏ qua phần bù rủi ro. Và do vậy, khi xảy ra rủi ro thì không có gì để bù đắp nên ngân hàng phải gánh chịu tổn thất.
* Nguyên nhân khách quan:
- Môi trường kinh tế - xã hội không ổn định: Môi trường kinh tế - xã hội của quốc gia bất ổn có thể dẫn đến sự thất bại trong kinh doanh hoặc làm giảm thu nhập của khách hàng và do vậy làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó rất dễ dẫn đến rủi ro tín dụng. Ngoài ra, sự thay đổi mối quan hệ ngoại giao hay luật pháp theo hướng tiêu cực hoặc quá đột ngột cũng có thể gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng và do vậy cũng có khả năng dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Sự biến đổi của môi trường tự nhiên: Thiên nhiên rất khó dự đoán và thiệt hại do thiên nhiên gây ra lại càng khó dự đoán hơn. Các trận động đất, lũ lụt hoặc hỏa hoạn…có thể làm các khách hàng trắng tay, do vậy hoàn toàn không còn hoặc không còn đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng và tất yếu là ngân hàng bị tổn thất nếu khoản vay không có phần bù rủi ro hoặc tài sản bảo đảm.
- Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và chồng chéo: Hệ thống pháp lý chưa đầy đủ sẽ gây khó khăn cho ngân hàng khi thực hiện hoạt động tín dụng như thực hiện các thủ tục liên quan đến tài sản bảo đảm, xử lý nợ …Còn hệ thống pháp lý chồng chéo sẽ rất khó khăn khi áp dụng, thậm chí là không thể thực hiện dẫn đến rủi ro tín dụng có thể không được xử lý hoặc chậm xử lý dẫn đến tổn thất lớn hơn cho các ngân hàng. Ngoài ra, môi trường pháp lý thiếu lành mạnh và minh bạch còn dễ dẫn đến các vụ tham ô, hối lộ làm cho các quy định khi cho vay không được thự hiện đúng và đầy đủ và do vậy tất yếu dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Môi trường văn hóa - xã hội: Bất kỳ quốc gia hay vùng lãnh thổ nào đều có các đặc điểm văn hóa xã - hội riêng. Nếu không hiểu biết những đặc điểm văn hóa xã hội này để có ứng xử phù hợp thì ngân hàng sẽ dễ gặp thất bại khi cho vay và nhận về rủi ro tín dụng là tất yếu.
3.1.1.4 Tác động của rủi ro tín dụng
* Tác động đến ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm gia tăng chi phí nên gây ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng. Khi có rủi ro tín dụng, trước hết ngân hàng sẽ tốn thêm chi phí để xử nợ quá hạn hay nợ xấu nhằm thu hồi vốn vay. Việc thu hồi nợ