hoặc xử lý nợ thành công tốn rất nhiều thời gian, tiền bạc và công sức. Chỉ đến khi thu hồi hay xử lý nợ thành công thì ngân hàng mới thu về được vốn và lãi tín dụng, trong khi đó chi phí huy động của khoản cho vay ngân hàng vẫn phải trả. Ngoài ra, chậm hoặc không thu hồi được vốn vay thì rủi ro thanh khoản có thể xảy ra do ngân hàng không có tiền để trả cho các khoản tiền gửi đến kỳ đáo hạn. Mặt khác, khi có rủi ro tín dụng xảy ra thì chi phí trích lập dự phòng sẽ tăng lên do nhóm nợ cao thì tỷ lệ trích lập dự phòng cũng cao. Khi rủi ro tín dụng ở mức độ lớn và kéo dài, dự phòng và vốn tự có không đủ bù đắp thì còn có thể dẫn đến phá sản ngân hàng do ngân hàng mất khả năng thanh toán. Thậm chí khi rủi ro tín dụng xảy ra, dù không lớn thì vẫn ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của ngân hàng và lòng tin của khách hàng và của đối tác, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và khả năng cao là sẽ dẫn đến kết quả lợi nhuận bị giảm sút.
* Tác động đến nền kinh tế
Chúng ta đều biết rằng, hoạt động kinh doanh của ngân hàng mang tính hệ thống vì ngân hàng liên quan đến hoạt động của tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội. Vì vậy, rủi ro tín dụng xảy ra nếu đủ lớn, thậm chí có thể làm cho thị trường tài chính của quốc gia bị sụp đổ, từ đó dẫn đến sự bất ổn hay suy giảm kinh tế nên gia tăng thất nghiệp và làm xã hội bất ổn, chất lượng cuộc sống giảm sút. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng còn là công cụ điều tiết vĩ mô của NHNN nên sự an toàn và vững mạnh của hệ thống ngân hàng là vô cùng quan trọng. Do vậy, cần thiết phải hạn chế rủi ro tín dụng để đảm bảo nền kinh tế ổn định và phát triển.
3.1.2 Tiêu chí đo lường rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại
Các tiêu chí đánh giá RRTD tại các ngân hàng thương mại có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó trực tiếp phản ánh RRTD của ngân hàng. Theo Nguyễn Văn Tiến và Nguyễn Mạnh Hùng (2017) thì các chỉ tiêu đánh giá RRTD gồm:
*Chỉ tiêu trực tiếp:
- Nợ quá hạn: Là chỉ tiêu cơ bản phản ánh RRTD, phát sinh khi đã đến thời hạn trả nợ theo cam kết nhưng người đi vay không có khả năng hoàn trả một phần hay toàn bộ khoản nợ cho người cho vay. Có hai chỉ tiêu phản ánh Nợ quá hạn là:
Tỷ lệ nợ quá hạn = Số dư nợ quá hạn/Tổng dư nợ
Tỷ lệ khách hàng có nợ quá hạn = số khách hàng có nợ quá hạn/tổng số khách hàng có dư nợ
Hai chỉ tiêu này càng lớn thể hiện mức độ rủi ro của ngân hàng càng cao.
- Nợ xấu: Là các khoản vay mà ngân hàng khó hoặc không thể thu hồi được vốn vay do khách hàng không còn đủ khả năng trả nợ hoặc khách hàng mất khả năng thanh toán khi khoản vay đến hạn phải trả nợ. Các chỉ tiêu về nợ xấu phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng là:
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu = Nợ xấu/Vốn chủ sở hữu
Hai tỷ lệ này cao cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng không tốt và vì vậy ngân hàng đang có mức độ rủi ro tín dụng cao.
- Dự phòng RRTD: Dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng được dùng để bù đắp tổn thất đối với những khoản nợ mà khách hàng không còn khả năng trả nợ. Do vậy, chỉ tiêu này cho thấy khả năng chi trả của ngân hàng khi có rủi ro xảy ra.
Dự phòng tín dụng được tính trên nợ gốc của khách hàng, gồm: Dự phòng cụ thể và dự phòng chung, trong đó dự phòng cụ thể là để bảo hiểm rủi ro một khoản vay cụ thể và dự phòng chung là để bảo hiểm các rủi ro chung của cả danh mục tín dụng. Dự phòng được tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng nên dự phòng cao sẽ tăng chi phí, do vậy làm giảm lợi nhuận và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cũng theo Nguyễn Văn Tiến và Nguyễn Mạnh Hùng (2017) thì cho đến nay mặc dù đã có những điểm tương đồng nhất định trong việc phân loại nợ và trích lập dự phòng giữa các quốc gia, nhưng chưa có quy định và tiêu chuẩn quốc tế thống nhất được công nhận.
Tại Việt Nam, tính cho đến hiện tại thì việc trích lập dự phòng được thực hiện theo công thức:
Dự phòng chung = 0.75% x tổng giá trị các khoản nợ tử nhóm 1 đến nhóm 4 Dự phòng cụ thể = max (0, (A-C) x r
Trong đó: A là giá trị khoản nợ, C là giá trị tài sản bảo đảm, r là tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.
Nguyên tắc là nếu có rủi ro xảy ra thì dự phòng rủi ro cụ thể sẽ được sử dụng trước, sau đó sẽ bán tài sản bảo đảm của khoản nợ để thu hồi nợ vay và trường hợp sau khi đã bán tài sản bảo đảm của khoản vay rồi nhưng vẫn chưa thu hồi đủ vốn gốc của khoản nợ thì sẽ sử dụng dự phòng chung. Mỗi ngân hàng cần có cách tính dự phòng phù hợp vừa đủ để bù đắp rủi ro vừa tránh để chi phí tăng cao ảnh hưởng đến thu nhập ròng.
* Chỉ tiêu gián tiếp
Các chỉ tiêu gián tiếp mặc dù không phản ánh cụ thể RRTD của ngân hàng, tuy nhiên các chỉ tiêu này có sự thay đổi lớn của kỳ này so với kỳ trước hay so với mức bình của hệ thống thì các chỉ tiêu này là dấu hiệu phản ánh RRTD của ngân hàng. Đây có thể xem là dấu hiệu cảnh báo cho ngân hàng về việc cần xem xét thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá toàn diện về RRTD của ngân hàng ấy. Một số chỉ tiêu gián tiếp được sử dụng để đánh giá RRTD là:
- Qui mô tín dụng: Không phản ánh trực tiếp, nhưng thông qua chỉ tiêu này có thể thấy được nếu qui mô tín dụng tăng nóng (tăng nhanh trong một khoảng thời gian rất ngắn) và vượt quá khả năng kiểm soát của ngân hàng thì lúc đó qui mô tín dụng cho thấy có RRTD. Các chỉ tiêu thể hiện qui mô tín dụng là:
Dư nợ trên tổng tài sản = Tổng dư nợ/Tổng tài sản
Dư nợ bình quân trên số lượng cán bộ tín dụng = Tổng dư nợ/Tổng số cán bộ tín dụng bình quân
Số lượng khách hàng trên số lượng cán bộ tín dụng = Tổng số khách hàng/Tổng số cán bộ tín dụng bình quân
Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng so với tốc độ tăng trưởng kinh tế = Tốc độ tăng trưởng tín dụng/Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Nếu vì áp lực mở rộng qui mô mà các ngân hàng nới lỏng các tiêu chuẩn tín dụng cho các khách hàng khi cho vay thì rất dễ dẫn đến tình huống vốn vay không được
sử dụng đúng mục đích hoặc ngân hàng không kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và do vậy sẽ có thể xảy ra rủi ro cho ngân hàng.
- Cơ cấu tín dụng: Thể hiện mức độ tập trung tín dụng vào ngành nghề, lĩnh vực, loại hình doanh nghiệp hay loại tiền cấp tín dụng. Do vậy, tuy cơ cấu tín dụng không trực tiếp phản ánh rủi ro tín dụng nhưng nếu có sự mất cân đối cơ cấu tín dụng vào những lĩnh vực rủi ro hoặc tiềm ẩn rủi ro thì cơ cấu tín dụng cho thấy có RRTD tiềm năng.
3.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
Về mặt lý thuyết, có hai nhóm các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng là nhóm các yếu tố nội tại ngân hàng (ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng phi hệ thống) và nhóm các yếu tố kinh tế vĩ mô (ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng hệ thống). Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng có hệ thống là các yếu tố kinh tế vĩ mô như tỷ lệ việc làm, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội, chỉ số chứng khoán, tỷ lệ lạm phát và tỷ giá hối đoái hay các thay đổi chính sách kinh tế như thay đổi về chính sách tiền tệ và thuế, thay đổi pháp luật kinh tế, hạn chế và kích thích xuất khẩu hoặc thay đổi chính trị hoặc thay đổi mục tiêu chính trị hàng đầu. Còn các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng phi hệ thống là những yếu tố cụ thể như uy tín của người vay, khả năng tài chính của người vay và khả năng trả nợ. Có một số nghiên cứu thực nghiệm phân tích ảnh hưởng của nhóm yếu tố kinh tế vĩ mô và các yếu tố nội tại ngân hàng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng như Ghosh (2012) cho rằng có sự đan xen giữa các yếu tố nội tại của ngân hàng và các yếu tố bên ngoài ngân hàng có ảnh hưởng rủi ro tín dụng của ngân hàng. Theo Agnello và Sousa (2011) thì cần thiết phải phân tích các yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng vì nó có thể cung cấp dấu hiệu báo động khi hệ thống trở nên dễ bị tổn thương trước các cú sốc. Điều này có thể giúp các cơ quan quản lý thực hiện các biện pháp ngăn ngừa một cuộc khủng hoảng có thể xảy ra.
Tham khảo mô hình nghiên cứu của Hasna Chaibi và Zied Ftiti (2015) thì tác giả đưa các yếu tố sau vào mô hình nghiên cứu:
* Nhóm yếu tố nội tại ngân hàng
Dự phòng rủi ro tín dụng (LLP): dự phòng rủi ro tín dụng/Tổng tài sản: Chỉ tiêu này được các ngân hàng dùng để bảo hiểm rủi ro cho khoản vay và kiểm soát tổn thất. Dự phòng rủi ro cao thể hiện ngân hàng có rủi ro tín dụng (được đại diện bằng tỷ lệ nợ xấu) cao. Do vậy, giả thuyết là LLP có tác động cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu.
Sự kém hiệu quả hay kém hiệu quả chi phí hoạt động (EFF): được tính bằng chi phí hoạt động/thu nhập hoạt động. Có mối quan hệ ngược chiều giữa khoản vay có vấn đề và hiệu quả chi phí, hàm ý là hiệu quả chi phí càng thấp (nghĩa là kém hiệu quả chi phí càng cao) sẽ làm phát sinh nợ xấu nhiều hơn (Berger và DeYoung, 1997). Do vậy giả thuyết là EFF và RRTD có tác động cùng chiều.
Đòn bẩy (LEV): thể hiện bằng công thức Tổng nợ/Tổng tài sản. Đòn bẩy liên quan đến việc sử dụng nợ để thu lợi nhuận nên nhằm tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn thì các ngân hàng sẽ có thể chấp nhận rủi ro cao hơn. Do vậy, giả thuyết là LEV tác động tích cực lên RRTD.
Tỷ lệ khả năng thanh toán (ETA): Được tính bằng Vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản. Nghiên cứu của Berger và DeYoung (1997) đã chỉ ra mức vốn không mạnh thường đi kèm với rủi ro tín dụng, từ đó dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao. Gỉa thuyết cho yếu tố này là ETA tác động tiêu cực đến RRTD.
Thu nhập ngoài lãi (NII): Thể hiện bằng thu nhập ngoài lãi/Tổng thu nhập. Chỉ tiêu này cao sẽ làm giảm áp lực phải thu được nhiều lợi nhuận từ tín dụng, nhờ đó sẽ làm giảm RRTD. Giả thuyết là tác động của NII lên RRTD là ngược chiều.
Quy mô ngân hàng (SIZE): Tính bằng Logarit (Tổng tài sản). Về mặt lý thuyết thì ngân hàng càng có quy mô lớn thường có tỷ lệ nợ xấu cao do ngân hàng tin rằng họ không thể nào gặp rủi ro khi quy mô của họ quá lớn, từ đó dễ hàng hơn trong các khoản cho vay, dẫn đến nợ xấu nhiều. Gỉa thuyết là tác động của quy mô ngân hàng và nợ xấu là cùng chiều.
Lợi nhuận ngân hàng (ROE): Được tính bằng Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu: ROE đại diện cho chất lượng quản lý và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Khi lợi nhuận kém nghĩa là chất lượng quản lý không tốt, do vậy sẽ dẫn tới tỷ lệ nợ xấu tăng cao hơn. Gỉa thuyết là ROE có tác động tiêu cực với RRTD.
* Nhóm yếu tố kinh tế vĩ mô
Tăng trưởng GDP (GGDP): Tăng trưởng kinh tế tốt làm tăng khả năng trả nợ hoặc đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng của cá nhân và doanh nghiệp. Ngược lại, khi tăng trưởng GDP giảm sút báo hiệu nền kinh tế xấu đi thì khả năng trả nợ của người đi vay giảm sút hoặc mất khả năng trả nợ do phá sản, thua lỗ và do vậy làm RRTD tăng lên. Do vậy giả thuyết là GGDP có ảnh hưởng tiêu cực đến nợ xấu.
Lạm phát (INF): Khi có lạm phát cao làm giảm thu nhập thực tế của người vay trong khi số tiền lãi vay phải trả lại tăng lên do trong thời kỳ lạm phát cao thì mặt bằng lãi suất cũng cao, do vậy có thể dẫn đến khả năng trả nợ suy giảm hoặc người đi vay mất khả năng trả nợ nên sẽ làm các khoản nợ xấu tăng cao hơn. Do vậy, giả thuyết là INF tác động cùng chiều đến RRTD.
Lãi suất danh nghĩa (INR): Lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ của người đi vay, cụ thể là khi lãi suất tăng thì áp lực trả nợ của người đi vay cũng tăng lên do số tiền lãi phải trả tăng. Trường hợp tiền lãi tăng cao vượt quá khả năng trả nợ của người đi vay thì tổn thất của ngân hàng xảy ra. Do vậy, Gỉa thuyết là INR có tác động tích cực đến RRTD.
Tỷ lệ thất nghiệp (UNR): Khi thất nghiệp tăng thì tiêu dùng bị suy giảm dẫn đến làm suy giảm khả năng tạo ra thu nhập, kết quả là làm cho khả năng trả nợ của khách hàng giảm hoặc thậm chí xảy ra mất khả năng trả nợ ở một số khách hàng. Do vậy, giả thuyết rằng tác động của UNR đến RRTD là cùng chiều.
Tỷ giá hối đoái (EXR): Tỷ giá tăng một mặt hỗ trợ cho xuất khẩu, nhờ vậy nguồn thu nhập dồi dào làm tăng khả năng trả nợ và nhờ đó giảm RRTD, nhưng mặt khác tỷ giá tăng làm cho việc nhập khẩu nguyên vật liệu, hàng hóa trở nên đắt đỏ, từ đó gây áp lực lên giá cả và làm giảm chi tiêu, dẫn đến giảm khả năng trả nợ và vì vậy RRTD sẽ tăng lên. Do vậy giả thuyết rằng EXR có thể tác động cùng chiều hoặc ngược chiều đến RRTD.
Bảng 3.1: Bảng tổng kết yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
Cách đo lường | Kỳ vọng | |
Tỷ lệ nợ xấu (NPL) | Nợ xấu/Tổng dư nợ | |
Yếu tố nội tại ngân hàng | ||
Dự phòng rủi ro tín dụng (LLP) | Dự phòng rủi ro tín dụng/Tổng tài sản | + |
Kém hiệu quả chi phí hoạt động (EFF) | Chi phí hoạt động/Thu nhập hoạt động | + |
Tỷ lệ khả năng thanh toán (ETA) | Vốn chủ sở hữu/tổng tài sản | - |
Đòn bẩy (LEV) | Tổng nợ/tổng tài sản | + |
Thu nhập ngoài lãi (NII) | Thu nhập ngoài lãi/Tổng thu nhập | - |
Quy mô (SIZE) | Tổng tài sản | + |
Lợi nhuận (ROE) | Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu | - |
Yếu tố tế vĩ mô | ||
Lạm phát (INF) | Tỷ lệ lạm phát | + |
Tăng trưởng GDP (GGDP) | Tỷ lệ tăng trưởng GDP | - |
Lãi suất danh nghĩa (INR) | Lãi suất danh nghĩa | + |
Tỷ lệ thất nghiệp (UNR) | Tỷ lệ thất nghiệp | + |
Tỷ giá hối đoái (EXR) | Tỷ giá VND/USD | - |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Vấn Đề Cần Quan Tâm Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Hiện Nay
- Lựa Chọn Vấn Đề Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Nhtm Việt Nam
- Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 5
- Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Nhóm Yếu Tố Kinh Tế Vĩ Mô Ảnh Hưởng Đến Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng
- Phân Tích Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Nhtm Việt Nam
- Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 9
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp dựa trên nghiên cứu của Hasna Chaibi và Zied Ftiti (2015); Nguyễn Quốc Anh và Nguyễn Hữu Thạch (2015))
3.1.4 Lược khảo các nghiên cứu trước
3.1.4.1 Các nghiên cứu liên quan đến nhóm yếu tố nội tại ngân hàng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng ngân hàng
Một số nghiên cứu thực nghiệm của Berger và DeYoung (1997), Bikker và Hu (2002), Pain (2003), Jimenez và Saurina (2006) và Quagliariello (2007) đã cho thấy các yếu tố đặc trưng cho ngân hàng như quy mô, hiệu quả, chất lượng tín dụng là yếu tố quyết định quan trọng của nợ xấu, bởi vì chúng có thể gây ra các khoản vay có rủi ro.
Godlewski (2004) sử dụng lợi tức trên tài sản (ROA) như là một chỉ số hiệu quả. Ông cho thấy tác động của lợi nhuận của các ngân hàng là tiêu cực đối với tỷ lệ nợ xấu. Tuy nhiên, bằng cách nghiên cứu 129 ngân hàng Tây Ban Nha cho giai đoạn 1993-2000, Garcıa-Marco và M. Dolores Robles-Fernandez (2008) cho thấy tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) cao hơn theo sau là rủi ro trong tương lai. Họ lập luận rằng chính sách tối đa hóa lợi nhuận đi kèm với mức độ rủi ro cao. Sinkey và Greenwalt (1991) đã nghiên cứu những tổn thất của ngành ngân hàng ở Hoa Kỳ. Tác giả khẳng định rằng các yếu tố bên trong và bên ngoài giải thích tỷ lệ tổn thất của các ngân hàng này. Các tác giả này đã tìm ra mối quan hệ tích cực đáng kể giữa tỷ lệ tổn thất khoản vay và các yếu tố nội tại như cho vay quá mức, lãi suất cao. Tương tự, Pesola (2007) cho rằng khoản lỗ của khoản vay là yếu tố chính ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức tín dụng. Ông đã sử dụng các biến số kinh tế vĩ mô để giải thích sự phân bố tổn thất. Các khoản dự phòng tổn thất cho vay (LLR) phản ánh thái độ chung của hệ thống ngân hàng để kiểm soát rủi ro. LLR được tính theo số khoản dự phòng rủi ro tín dụng. Điều khoản được xác định dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cơ quan trong lĩnh vực này. Hasan and Wall (2004) đã sử dụng một mẫu ngân hàng thuộc 24 quốc gia trong giai đoạn 1993-2000; Họ nhận thấy rằng các khoản nợ không hiệu quả cao hơn gắn liền với mức LLR cao. Boudriga và các cộng sự (2009) đã nghiên cứu các yếu tố quyết định của NPL và tác động của giám sát môi trường trong giai đoạn 2002-2006 đối với một mẫu gồm 59 quốc gia. Các tác giả nhận thấy rằng một khoản dự phòng cao hơn dường như làm giảm mức nợ xấu. Họ cũng tìm thấy mối liên hệ giữa các khoản nợ xấu và các biến số ngân hàng cụ thể như tỷ lệ tổng tài sản sở hữu bị đánh giá là rủi ro.