Vai Trò Của Tín Dụng Ngân Hàng Trong Nền Kinh Tế Thị Trường‌


tín nhiệm lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng.

1.2.1.2Tín dụng ngân hàng‌

Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ tín dụng được thể hiện rất đa dạng, phong phú, dựa trên yếu tố chủ thể tham gia quan hệ tín dụng, bao gồm: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước.

Tín dụng của ngân hàng thể hiện quan hệ tín dụng phát sinh giữa ngân hàng với khách hàng, trong đó ngân hàng là người cấp tín dụng cho khách hàng dưới hình thức bằng tiền hoặc tài sản trong một khoảng thời gian đã thỏa thuận, với cam kết là khách hàng phải hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn.

Hay đứng trên góc độ là NHTM, tín dụng là hình thức sử dụng vốn của ngân hàng thông qua việc chuyển giao vốn tín dụng cho khách hàng dưới hình thức bằng tiền hoặc tài sản mà khách hàng cam kết hoàn trả nợ và lãi đúng hạn.1

Theo khoản 8 và khoản 10, điều 20, Luật các tổ chức tín dụng, hoạt động tín dụng được định nghĩa là việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để thỏa thuận cấp tín dụng cho khách hàng với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác.

Quan hệ tín dụng ngân hàng được thể hiện qua hai khâu:

Khâu huy động vốn: Ngân hàng là chủ thể đi vay, huy động khai thác các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hình thành nên nguồn vốn cho vay. Nguồn vốn huy động chủ yếu từ tổ chức, cá nhân thông qua các hình thức nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu hay vay nợ của tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.



Ảnh hưởng của công cụ lãi suất đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 3

1 Trầm Thị Xuân Hương và các tác giả khác (2012), “Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, trang 47. [18]


Khâu cho vay: Từ nguồn vốn huy động được, ngân hàng thực hiện cho vay cấp tín dụng lại cho các chủ thể có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.

1.2.2 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng

Do đặc tính về lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, để tập trung lượng vốn lớn từ nhiều chủ thể và phân phối đáp ứng nhu cầu vốn cho các chủ thể kịp thời và đầy đủ, ngân hàng vận dụng vốn dưới hình thức tiền tệ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.

Chủ thể trung tâm trong quan hệ tín dụng ngân hàng là các NHTM, các TCTD. Ngân hàng vừa thực hiện vai trò là chủ thể trong khâu huy động, vừa thực hiện vai trò là chủ thể cho vay trong khâu phân phối cho vay.

Để có thể cung ứng vốn tín dụng kịp thời, ngân hàng phải huy động vốn từ các khách hàng trong nền kinh tế. Vì vậy, việc thu hồi vốn tín dụng từ việc hoàn trả nợ vay là yêu cầu tất yếu của hoạt động tín dụng của NHTM. Ngoài ra, việc hoàn trả bao gồm cả gốc và lãi. Vì vốn cho vay của ngân hàng là vốn có tính ngắn hạn là chủ yếu và sau một thời gian nhất định ngân hàng phải hoàn trả cho những người gửi tiền. Đồng thời ngân hàng cần phải có nguồn bù đắp chi phí các hoạt động như khấu hao tài sản cố định, trả lương cho cán bộ công nhân viên, chi phí văn phòng, do đó người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả lãi.

Khi chuyển giao vốn tín dụng, ngân hàng chỉ chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng chứ không chuyển giao quyền sở hữu vốn. Khách hàng sử dụng vốn tín dụng phải hoàn trả nợ gốc kèm theo lãi.

Tín dụng của NHTM đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thâm nhập vào mọi lĩnh vực ngành nghề và có thời gian cho vay phong phú nên các sản phẩm tín dụng ngày càng phong phú và đa dạng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của khách hàng.

Tín dụng là nghiệp vụ mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Tuy nhiên, thu nhập càng lớn thì rủi ro càng cao, nên hoạt động tín dụng của NHTM hầu hết


các nước trên thế giới đều phải có khung pháp lý và được NHTW kiểm soát chặt chẽ.

Khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng phải tuân thủ quy trình tín dụng một cách tuần tự và chặt chẽ. Mọi tác nghiệp của hoạt động tín dụng cần được kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo khách hàng trả nợ và lãi đúng hạn, hạn chế mức thấp nhất tình trạng nợ xấu.

Nghiệp vụ cấp tín dụng rất đa dạng bao gồm: cho vay, chiết khấu, thấu chi, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh…Tại Việt nam hiện nay, hoạt động tín dụng của ngân hàng chủ yếu là cho vay. Cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong các sản phẩm tín dụng tại Việt Nam.

1.2.3 Phân loại tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng được phân loại dựa trên một số tiêu thức sau:


Thứ nhất, theo thời gian sử dụng vốn vay, tín dụng được phân thành ba loại sau:

Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân.

Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.

Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.

Thứ hai, căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, TDNH được chia thành hai loại:

Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.

Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa, xe cộ, các thiết bị gia đình…


Thứ ba, căn cứ vào tính chất đảm bảo của các khoản vay, TDNH có các loại sau:

Tín dụng có đảm bảo: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay đều có tài sản tương đương thế chấp, có các hình thức như: cầm cố, thế chấp, chiết khấu và bảo lãnh.

Tín dụng không có đảm bảo: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào tín chấp. Loại hình này thường được áp dụng với khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài với ngân hàng, khách hàng này phải có tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối với ngân hàng như trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ…

Thứ tư, căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng thì có hai loại:

Tín dụng bằng tiền: đối tượng thể hiện dưới dạng tiền tệ, có thể là nội tệ hay ngoại tệ.

Tín dụng bằng tài sản: ví dụ như cho thuê tài chính.

Trong nền kinh tế thị trường, việc phân loại TDNH theo các tiêu thức trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi các hình thức tín dụng càng đa dạng thì cách phân loại càng chi tiết. Phân loại tín dụng giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của vốn tín dụng trong từng loại hình cho vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng.

1.2.4 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường‌

Thứ nhất, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tái sản xuất xã hội.

TDNH huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế trong xã hội, từ đó cung ứng vốn kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tín dụng của các doanh nghiệp và cá nhân để họ có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.

Thứ hai, tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ, tập trung và tài trợ vốn có hiệu quả cho nền kinh tế.


TDNH tập trung các khoản tín dụng nhỏ lẻ thành các nguồn vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn, hiệu quả cao. Đồng thời các doanh nghiệp cũng nhờ các khoản tín dụng có đủ vốn để mở rộng sản xuất, rút ngắn thời gian tích lũy vốn. Các doanh nghiệp sẽ chủ động trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh vì nó không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân.

TDNH không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất, thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn đầu tư trung và dài hạn, đáp ứng các nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mua sắm tài sản cố định…Ngoài ra TDNH còn đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng cá nhân.

Nguồn vốn TDNH là nguồn vốn tài trợ có hiệu quả nhất vì nó thỏa mãn về thời hạn và số lượng, đồng thời các hình thức tín dụng đa dạng, sự tiếp cận dễ dàng, chi phí thấp. Bên cạnh đó các hình thức tín dụng cung ứng luôn kèm theo điều kiện tín dụng để hạn chế rủi ro vì vậy người đi vay phải quan tâm thực sự tới hiệu quả sử dụng vốn thì mới có thể quan hệ lâu dài với TCTD.

Thứ ba, tín dụng là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.

Việc đảm bảo mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hòa phụ thuộc một phần vào khối lượng tín dụng và cơ cấu tín dụng về mặt thời hạn cũng như về mặt đối tượng tín dụng. Vấn đề này lại phụ thuộc vào các điều kiện tín dụng như lãi suất cho vay, điều kiện cho vay, yêu cầu thế chấp bảo lãnh và chủ trương mở rộng tín dụng. Vậy thông qua thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô hoặc chuyển hướng vận động của các nguồn vốn tín dụng, từ đó ảnh hưởng tới tổng cầu của nền kinh tế. Tổng cầu thay đổi sẽ ảnh hưởng đến tổng cung và điều kiện sản xuất khác, điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô cần thiết.


1.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng‌


1.2.5.1 Các nhân tố từ phía ngân hàng‌

Các nhân tố về bản thân nội tại các ngân hàng liên quan đến sự phát triển của ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng bao gồm:

Thẩm định dự án đầu tư: nhằm rút ra những kết luận chính xác về tính khả thi, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra khi quyết định cho vay. Công tác thẩm định ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Nếu việc việc thẩm định được thực hiện một cách nghiêm túc, chặt chẽ, cẩn thận với chất lượng cao sẽ mang lại các quyết định chính xác, hạn chế được rủi ro, đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cho ngân hàng.

Chính sách tín dụng: là đường lối chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín dụng được thực hiện một cách tốt nhất, thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn và phù hợp sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo được khả năng sinh lợi của hoạt động tín dụng.

Công tác tổ chức của ngân hàng: Với một cơ cấu tổ chức khoa học sẽ đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bộ phận, phòng ban, nhân viên trong ngân hàng. Điều này tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu khách hàng, theo dòi quản lý chặt chẽ các khoản vốn huy động và vốn vay, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng.

Đội ngũ cán bộ tín dụng: Đội ngũ cán bộ tín dụng có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức, có năng lực, hiểu biết rộng về môi trường kinh tế - xã hội, phát luật… sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động tín dụng, góp phần vào sự phát triển ổn định và bền vững của các ngân hàng.

Lãi suất cho vay: Lãi suất là giá cả của tín dụng, là giá của quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định mà người sử dụng phải trả cho người vay. Lãi suất là cơ sở để cá nhân và doanh nghiệp đưa ra các quyết định về chi tiêu, gửi tiết kiệm, đầu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh…Vì vậy, hoạt động tín dụng ảnh hưởng rất nhiều bởi mức lãi suất cho vay của các ngân hàng. Các


ngân hàng cần đưa ra một mức lãi suất thích hợp để hấp dẫn và thu hút khách hàng của mình.

Sản phẩm, dịch vụ tín dụng: Trong bối cảnh cạnh tranh ngày nay, các ngân hàng cần không ngừng nâng cao chất lượng, mở rộng đa dạng hóa, phát triển theo chiều sâu sản phẩm dịch vụ để thu hút, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Điều này mang lại nhiều tiện ích, an toàn và sự hài lòng cho khách hàng, giúp ngân hàng nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường.

Hoạt động marketing, tiếp thị của ngân hàng: Hoạt động marketing giữ vai trò quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh, thương hiệu và sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thu hút sự quan tâm chú ý của khách hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng cũng chịu tác động rất nhiều từ hoạt động marketing, từ các chương trình khuyến mãi, chương trình quảng cáo, giới thiệu sản phẩm tín dụng, giảm lãi suất, tặng quà nhân ngày lễ…của các ngân hàng sẽ nhận được sự quan tâm chú ý của khách hàng và thu hút họ đến giao dịch nhiều hơn.

1.2.5.2 Các nhân tố bên ngoài‌

Môi trường pháp lý: Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của ngân hàng đều phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Các hoạt động của các NHTM chịu sự điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của nhà nước, cụ thể trong từng thời kỳ tuân thủ những quy định về lãi suất, dự trữ, hạn mức cho vay… Mặt khác, các NHTM là các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, là lĩnh vực chứa đựng rủi ro rất lớn do vậy mà ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật.

Chính sách kinh tế, tài chính – tiền tệ của nhà nước: NHTW căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để thực hiện điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm đạt một số mục tiêu nhất định như ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế…Các NHTM là định chế trung gian, đóng vai trò phân phối luồng tiền lưu thông trên thị trường, lợi nhuận có được do phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí trên luồng tiền đó. Do đó, khi


luồng tiền được phép lưu thông tăng hay giảm đều ảnh hưởng đến nguồn lợi nhuận của hệ thống ngân hàng.

Sự phát triển kinh tế: Nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển tăng trưởng và ổn định, thu nhập của người dân được đảm bảo và ổn định thì nhu cầu tích lũy của dân cư cao hơn, từ đó lượng tiền gửi vào ngân hàng tăng lên hay khả năng huy động vốn tăng lên. Mặt khác, nhu cầu sử dụng vốn từ các doanh nghiệp cũng tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, thu nhập thực tế của người lao động giảm và ngày càng biến động, điều này sẽ làm giảm lòng tin của khách hàng vào sự ổn định của đồng tiền. Hơn nữa, khi thu nhập thấp thì lượng tiền nhàn rỗi trong toàn nền kinh tế sẽ giảm xuống và lượng tiền dân cư đã ký thác vào hệ thống ngân hàng có nguy cơ rút ra. Khi đó, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản lý dự trữ và củng cố lòng tin của khách hàng vào hệ thống ngân hàng.

Hoạt động tín dụng ngân hàng còn chịu ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế thế giới. Khi thị trường thế giới biến động mạnh, đặc biệt là thị trường xuất nhập khẩu, làm cho hoạt động xuất nhập khẩu giảm sút, các doanh nghiệp kinh doanh không tiêu thụ được hàng hóa, khiến thua lỗ và ảnh hưởng đến công tác trả nợ cho ngân hàng.

Mức độ cạnh tranh: Hiện nay, số lượng ngân hàng được phép hoạt động ngày càng tăng, cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của nhiều tổ chức phi ngân hàng với rất nhiều sản phẩm và dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú, trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế là có hạn. Vì vậy, mức độ cạnh tranh ngành này khá khốc liệt, ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của ngân hàng nhất là trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn như hiện nay. Điều này đòi hỏi các ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tăng cường các nguồn lực nội tại…nhằm cạnh tranh tốt và phát triển bền vững.

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 02/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí