qua việc nhận thức trách nhiệm được giao, qua việc tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, văn hóa và các cam kết chính trị đã giao ước.
Thông qua bầu cử, nhân có thể loại bỏ những đại biểu không xứng đáng với sự tín nhiệm của mình. Bởi vì nhân dân không ủy quyền vĩnh viễn mà ủy quyền theo nhiệm kỳ, sau khi bầu cử, nhân dân thực hiện quyền giám sát để qua đó đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đại biểu, cần thiết có thể sử dụng quyền bãi miễn hoặc không bầu lại trong nhiệm kì tiếp theo. Như vậy, với việc bầu cử theo nhiệm kỳ, nhân dân có thể ngăn chặn sự tha hóa, lạm dụng quyền lực của chính quyền bằng việc thay thế các đại biểu khác xứng đáng hơn, bầu cử được xem là “phương thức chính thống thay đổi quyền lực nhà nước”, vì “cho dù nhà nước cùng các quan chức của nó có độc tài, chuyên chế đến đâu chăng nữa cũng bị ngăn chặn một cách thích đáng bằng các nhiệm kỳ hữu hạn của chúng” [23, tr.196].
Hai là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc thực hiện các quyền hiến định
Hiến pháp dân chủ, ngoài việc quy định và giới hạn phạm vi quyền lực nhà nước còn ghi nhận các quyền tự do dân chủ của nhân dân, để qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ, tham gia vào hoạt động của nhà nước, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước. Các quyền đó là: quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý, quyền bãi miễn đại biểu dân cử, quyền thông qua hoặc thay đổi hiến pháp, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân,…
Thứ nhất, quyền biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý. Trưng cầu dân ý là một cuộc bỏ phiếu toàn dân để chấp thuận hay phủ quyết một vấn đề hệ trọng nào đó của quốc gia. Các nước thường sử dụng trưng cầu dân ý trong trường hợp muốn thông qua hoặc thay đổi Hiến pháp, tham gia các liên minh quân sự, tham gia các thể chế khu vực hoặc quốc tế, quyết định những vấn đề vượt quá giới hạn mà hiến pháp chưa từng cho phép,… Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp quan trọng trong xã hội hiện đại, thể hiện quyền quyết định cuối cùng thuộc về nhân dân, là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước hữu hiệu.
Thứ hai, quyền bãi miễn đại biểu dân cử của nhân dân. Đây là một thủ tục
hiến định để qua đó nhân dân có thể loại bỏ những đại biểu làm việc kém hiệu quả, đi ngược lại với nguyện vọng của nhân dân, có dấu hiệu chuyên quyền, độc đoán hoặc vi phạm các chuẩn mực đạo đức, lối sống,… Bãi miễn là một quyền chính trị quan trọng đi đôi với quyền bầu cử, giúp nhân dân hạn chế những hệ lụy không mong muốn phát sinh sau khi chuyển giao quyền lực cho người đại diện của mình trong bộ máy nhà nước.
Thứ ba, quyền thông qua Hiến pháp hoặc thay đổi Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật gốc của quốc gia, tuy nhiên, không thể có một bản hiến pháp hoàn hảo, trường tồn cho mọi giai đoạn phát triển. Nhân dân có quyền thay đổi hiến pháp khi nó không còn phù hợp với thực tiễn hoặc xâm phạm đến lợi ích chung. Điều kiện để thay đổi hiến pháp là phải có sự đồng thuận xã hội cao, tức là được sự đồng ý của đa số nhân dân. Với việc hiện thực hóa quyền thay đổi hiến pháp, tiếng nói của nhân dân sẽ được phản ánh trong hiến pháp, đảm bảo quyền kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Nội Dung Đã Được Đề Cập Có Ý Nghĩa Đối Với Đề Tài
- Tính Tất Yếu Của Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước
- Giới Hạn Quyền Lực Nhà Nước Bằng Hiến Pháp Và Pháp Luật
- Vai Trò Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước
- Mô Hình Tam Giác Quyền Lực Trong Hoạch Định Chính Sách [114, P.3]
- Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Ở Một Số Nước Trên Thế Giới
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
Thứ tư, kiểm soát quyền lực nhà nước thông quan việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Điều 8, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) quy định: “Mọi người đều có quyền khiếu nại hữu hiệu đến toà án quốc gia có thẩm quyền để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định”. Các bản hiến pháp dân chủ nghi nhận quyền khiếu kiện của công dân như là một biện pháp hữu hiệu để chống lại các hành vi xâm phạm các quyền tự do của bản của công dân từ phía nhà nước, kịp thời phát hiện và xử lí các hành vi lạm quyền của quan chức nhà nước.
Ba là, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các tổ chức của xã hội dân sự
Xã hội dân sự “là hệ thống các tổ chức của công dân, các cộng đồng công dân và các quan hệ giữa chúng, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, nhằm hiện thực hóa các cá nhân và nhân cách, nối các cá nhân với hệ thống xã hội, củng cố và bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đồng thời thông qua các cộng đồng, xã hội công dân phối hợp với hoạt động của nhà nước, đảm bảo cho quan hệ giữa nhà nước và
xã hội cân bằng, ổn định, tạo các điều kiện tối ưu cho phát triển bền vững và tiến bộ xã hội” [80, tr.262].
Đặc trưng của xã hội dân sự là các tổ chức mang tính tự nguyện, tự chủ, tự quản, gắn bó với nhau bằng những nguyên tắc chung và hướng đến mục tiêu vì sự phát triển của cộng đồng. Cấu trúc của xã hội dân sự rất đa dạng, bao gồm toàn bộ những liên hiệp, hiệp hội, các nhóm công dân, các tổ chức công đoàn, các tổ chức phi chính phủ,… Sự kiểm soát quyền lực nhà nước của xã hội dân sự được thể hiện ở các điểm cơ bản:
Thứ nhất, xã hội dân sự tạo dựng các điều kiện, môi trường, các kênh khác nhau cho việc biểu đạt ý kiến cá nhân. Với sự hình thành của các diễn đàn khác nhau, người dân sẽ có điều kiện để bàn bạc, thảo luận và thể hiện quan điểm cá nhân với nhiều vấn đề của đời sống xã hội, trong đó có những vấn đề về nhà nước. Đồng thời, các tổ chức của xã hội dân sự làm cầu nối, kênh truyền dẫn tiếng nói, nguyện vọng của người dân đến với nhà nước, tạo cơ hội cho người dân tham gia vào công việc của nhà nước và gây ảnh hưởng đến chính quyền.
Thứ hai, xã hội dân sự đáp ứng nhu cầu phi tập trung hóa quyền lực nhà nước, hạn chế tình trạng quyền lực nhà nước tập trung quá mức. Sự hình thành của nhiều tổ chức của cộng đồng mang tính tự trị, tự quản không chỉ góp phần bù đắp những khiếm khuyết của nhà nước mà còn đẩy mạnh quá trình chuyển hóa quyền lực từ trung tâm (nhà nước) ra ngoại vi, tạo điều kiện cho “những đối lập thiểu số đa dạng” phát triển để góp phần củng cố dân chủ. Với sự phát triển của xã hội dân sự, công việc của nhà nước ngày càng có xu hướng xã hội hóa, phát huy được trí tuệ của cộng đồng, gắn kết nhà nước với xã hội thông qua việc phối hợp hành động, kết quả là các chính sách của nhà nước ngày càng gần dân và có hiệu quả hơn.
Thứ ba, xã hội dân sự thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội. Với tư cách là các tổ chức đại điện cho nhân dân, các tổ chức xã hội dân sự còn tham gia vào việc giám sát, phản biện đối với các chính sách của nhà nước và hoạt động của cơ quan công quyền. Từ đó, phát hiện, ngăn chặn những sai lầm của nhà nước, gây áp lực để buộc nhà nước phải điều chỉnh chính sách theo hướng có lợi cho cộng
đồng, góp phần nâng cao trách nhiệm của bộ máy nhà nước trong việc thực thi nhiệm vụ, hạn chế tình trạng quan liêu, lạm quyền.
Bốn là, kiểm soát quyền lực nhà nước của đảng chính trị
Đảng chính trị giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị của một quốc gia, là thành phần không thể thiếu cho sự hoạt động của hệ thống chính trị hiện đại. Có thể hiểu đảng chính trị là “tổ chức đại diện của một giai cấp (một lực lượng xã hội), gồm những người có cùng chính kiến, tự nguyện tham gia, hoạt động liên tục, nhằm thực hiện mục tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước trong khuôn khổ luật pháp quy định” [39, tr.96].
Thông qua bầu cử, các đảng chính trị tham gia vào cơ cấu quyền lực nhà nước, gây ảnh hưởng sâu rộng đến quá trình tổ chức và hoạt động của cơ quan công quyền. Đồng thời, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế những sai lầm của cơ quan quyền lực công.
Ở các quốc gia tồn tại hệ thống đa đảng, quyền lực nhà nước được kiểm soát bởi đảng đối lập là một trong những phương thức quan trọng. Thông qua bầu cử, đảng nào thắng cử trong bầu tổng thống (cộng hòa tổng thống và cộng hòa hỗn hợp) hoặc chiếm được đa ghế trong nghị viện (cộng hòa đại nghị và quân chủ lập hiến) sẽ thành lập chính phủ và điều hành nhà nước; các đảng khác trở thành đảng đối lập, mà một trong những chức năng quan trọng là kiểm soát quyền lực của đảng cầm quyền. Đối với các đảng đối lập, việc kiểm soát quyền lực của đảng cầm quyền là một cơ chế tự nhiên nhằm tìm ra những sơ hở, sai lầm của đảng cầm quyền để giành ưu thế trong lần tranh cử tiếp theo. Đối với đảng cầm quyền, sự kiểm soát của các đảng đối lập sẽ tạo ra sức ép, buộc đảng cầm quyền phải thận trọng hơn trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực, hạn chế sai lầm và khuynh hướng lạm quyền.
Ở các quốc gia không tồn tại hệ thống đa đảng đối lập, việc kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua vai trò của đảng cầm quyền. Thực chất đây là hoạt động tự kiểm soát để ngăn chặn tha hóa quyền lực. Đảng cầm quyền kiểm soát quyền lực nhà nước bằng định hướng chính trị cho hoạt động của nhà nước thông qua việc hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chương trình hành
động; kiểm soát bằng công tác tổ chức, công tác nhân sự, lựa chọn những người đủ đức, tài đảm nhiệm các vị trí quyền lực quan trọng trong bộ máy nhà nước; kiểm soát bằng việc giáo dục đạo đức, lập trường chính trị đối với đảng viên và thường xuyên kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lí đảng viên vi phạm trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, vì dựa chủ yếu vào tự kiểm soát nên các hệ thống chính trị không có đảng đối lập luôn có nguy cơ cao tha hóa quyền lực, chuyên quyền, độc đoán. Để khắc phục tình trạng này, các quốc gia thường tăng cường sự kiểm soát từ phía xã hội, nhất là từ các tổ chức chính trị - xã hội, xem sự kiểm soát này là một phương thức quan trọng, thậm chí đóng vai trò quyết định để đảm bảo quyền lực nhà nước được thực thi đúng mục đích, có hiệu quả.
Năm là, kiểm soát quyền lực nhà nước của các phương tiện truyền thông đại chúng
Các phương tiện truyền thông đại chúng là các thiết chế xã hội đặc thù với sự hỗ trợ của các yếu tố kỹ thuật để chuyển tải thông tin đến công chúng. Trong xã hội hiện đại, truyền thông đại chúng có vai trò ngày càng quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như tham gia vào công việc của nhà nước. Ở các nước phương Tây, từ rất lâu đời, truyền thông đại chúng được xem là nhánh “quyền lực thứ tư”, có vị trí độc lập tương đối với nhà nước và được dùng để đối trọng, kiềm chế, kiểm soát các nhánh quyền lực của nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp).
Với khả năng xâm nhập mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực xã hội, truyền thông đại chúng có khả năng tạo dựng dư luận và áp lực xã hội. Thông qua việc cung cấp, điều khiển thông tin, truyền thông đại chúng có sức mạnh đặc biệt trong việc phản ánh, kích thích, tác động và dẫn dắt dư luận xã hội; qua đó phát huy ảnh hưởng của mình đến quá trình hoạch định, thực thi và điều chỉnh chính sách của giai cấp cầm quyền theo hướng đáp ứng nhu cầu lợi ích chung.
Truyền thông đại chúng thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan công quyền. Với tư cách là thiết chế xã hội độc lập với các nhánh quyền lực của nhà nước, truyền thông đại chúng theo dòi, phát hiện, cảnh báo, ngăn chặn những sai phạm của các công chức và cơ quan nhà nước, tạo áp lực điều chỉnh để quyền lực nhà nước được thực thi đúng mục đích và có hiệu quả.
Truyền thông đại chúng đóng vai trò là “lực lượng trung gian” để người dân, các tổ chức của xã hội tham gia vào công việc của nhà nước. Trước hết, truyền thông đại chúng cung cấp thông tin về hoạt động của bộ máy nhà nước, tạo điều kiện để nhân dân tiếp cận và nắm bắt thông tin, thực hiện “quyền được biết”, góp phần vào việc minh bạch hóa, công khai các hoạt động của bộ máy nhà nước. Truyền thông đại chúng là các diễn đàn để người dân và các nhóm xã hội bàn bạc, thảo luận, thể hiện quan điểm về các vấn đề của nhà nước. Dưới áp lực của dư luận xã hội về các vấn đề được nhân dân thảo luận, góp ý, nhà nước có được những sự phản hồi cần thiết để điều chỉnh hoạt động, đồng thời, có cơ sở để kiểm soát quyền lực của mình một cách hợp lí, hiệu quả.
2.2. LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
2.2.1. Quan niệm về các tổ chức chính trị - xã hội
Trong suốt chiều dài lịch sử, con người luôn có truyền thống tự nguyện gắn kết với nhau để thực hiện các hoạt động, từ kinh tế đến sinh hoạt cộng đồng, văn hóa, xã hội và cao hơn là tham gia hoạt động chính trị. Ngay từ thời cổ đại, Aristotle đã xem con người là một động vật chính trị, có thiên hướng gắn kết với nhau trong các polis, thường “tụ họp với nhau để cùng thảo luận mọi vấn đề chung liên quan đến đời sống của cộng đồng” [31, tr.13]. Đến thời cận đại, cùng với cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến chuyên chế, thiết lập mô hình nhà nước pháp quyền, các quyền tự do cơ bản của công dân cũng từng bước được khôi phục, tạo điều kiện cho các nhóm, các tổ chức xã hội, các phong trào xã hội hình thành và phát triển. Các tổ chức của xã hội dân sự xuất hiện như một đòi hỏi tất yếu của quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, trở thành một trong những bộ phận quan trọng trong đời sống chính trị của các quốc gia.
Trong xã hội dân sự, có một bộ phận mà hoạt động của nó có liên quan đến công việc của nhà nước, đặt mục tiêu tác động, gây ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ. Bộ phận này ở các nước khác nhau, có tên gọi khác nhau như: các tổ chức xã hội độc lập, các nhóm lợi ích, các nhóm vận động hành lang, các nhóm áp
lực, các đoàn thể nhân dân,… nhưng nhìn chung, hoạt động của chúng vừa mang tính chính trị, vừa mang tính xã hội nên có thể gọi là các tổ chức chính trị - xã hội.
Tiếp cận nghiên cứu các tổ chức chính trị - xã hội dưới góc độ này được thể hiện trong quan điểm của nhiều nhà khoa học và tổ chức trên thế giới. Chẳng hạn, Giáo sư Yves Meny của Viện nghiên cứu chính trị Pari, trong tác phẩm “Chính trị học so sánh” đã khẳng định: “Sự hình thành các nhóm là hiện tượng chung cho tất cả các xã hội. Tất cả các nhóm đó được hình thành vì lợi ích chung: tình cảm, tài sản, tư tưởng, tập đoàn, nghề nghiệp, bạn bè. Tất cả các nhóm đó đều là nhóm lợi ích. Nhưng trong chính trị, mệnh đề đó có một ý nghĩa hẹp hơn và rò ràng hơn, nó chỉ đề cập đến nhóm nào tìm cách đòi lợi ích của mình đối với chính quyền. Ngược lại, chính quyền có liên hệ với nhóm đó để kiểm soát chúng, thường là làm cho chúng hợp tác với hành động của mình. Và vì vậy, nhóm lợi ích được phân biệt với những nhóm khác bởi sự tác động qua lại của nó với những thể chế của nhà nước và những đảng phái đang đấu tranh cho việc giành chính quyền hoặc đang nắm chính quyền” [50].
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) trong ấn phẩm “Tổ chức xã hội dân sự, Tài liệu hướng dẫn về quan hệ hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự” đã phân loại các tổ chức xã hội dân sự thành hai bộ phận: các tổ chức xã hội dân sự hành động và các tổ chức xã hội dân sự vận động. Các tổ chức xã hội dân sự hành động là những tổ chức “trực tiếp cung cấp, hoặc đóng góp vào việc cung cấp, các dịch vụ phúc lợi như là cứu trợ khẩn cấp hoặc quản lý và bảo vệ môi trường” [57, tr.4]. Các tổ chức xã hội dân sự vận động là “đại diện nêu lên những vấn đề, mối quan tâm, quan điểm hay những lợi ích cụ thể. Các tổ chức này hướng tới việc tác động tới các chính sách, thực tiễn, quan điểm của chính phủ” [57, tr.4]. Như vậy, tiêu chí cơ bản để phân biệt các tổ chức xã hội dân sự vận động với các tổ chức xã hội dân sự hành động là ở chỗ hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự vận động có tác động đến chính quyền, đặt mục tiêu ảnh hưởng lên chính sách của chính phủ. Tuy nhiên, Ngân hàng phát triển Châu Á cũng lưu ý sự phân loại như vậy chỉ tương đối, và trên thực tế ngày càng có nhiều tổ chức xã hội dân sự tham gia thực hiện các hoạt động
pha trộn cả hành động và vận động.
Từ sự phân tích trên, có thể phân loại các tổ chức chính trị - xã hội trong quan hệ so sánh với các tổ chức xã hội và các đảng chính trị:
- Các tổ chức xã hội là “những nhóm hoặc tổ chức các thành viên nhằm đạt được những mục đích chung của tổ chức, xã hội, cộng đồng mà không đặt ra mục tiêu trực tiếp gây ảnh hưởng, tác động đến quá trình hoạch định chính sách của nhà nước cũng như đảng phái. Chẳng hạn như hội những người làm vườn, hội từ thiện, câu lạc bộ những người yêu thơ,…” [80, tr.33].
- Đảng phái là “những tổ chức chính trị có mục đích hoạt động giành chính quyền, thực thi quyền lực nhà nước. Với mục tiêu lớn như vậy nên đảng phái thường được tổ chức thành một hệ thống chặt chẽ, có kỷ luật, nguyên tắc hoạt động cũng như lý tưởng, đường lối, chiến lược của mình” [80, tr.33].
- Các tổ chức chính trị - xã hội là “những tổ chức hoạt động vì lợi ích của các nhóm, các cộng đồng xã hội cụ thể, thông qua các phương thức gây ảnh hưởng đến chính quyền và đảng phái (mà không đặt ra mục tiêu giành hoặc tham gia chính quyền). Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm cả hoạt động chính trị và hoạt động phi chính trị”. [80, tr.33]
Các tổ chức chính trị - xã hội được phân biệt với các tổ chức xã hội ở chỗ, bên cạnh sự hoạt động vì lợi ích của nhóm, chúng còn mong muốn gây ảnh hưởng đến chính quyền. Và mặc dù các tổ chức chính trị - xã hội không hoạt động chính trị nhằm giành chính quyền như các đảng chính trị, nhưng các hoạt động xã hội của chúng đều mang tính chất chính trị, nói cách khác, các tổ chức chính trị - xã hội chính là môi trường chính trị nằm giữa nhà nước và xã hội nói chung. Tuy nhiên, sự phân loại nêu trên cũng chỉ mang tính tương đối, vì “khi tình hình kinh tế xã hội có những biến đổi, khi mục đích và phương thức hoạt động thay đổi thì tổ chức xã hội có thể trở thành tổ chức chính trị - xã hội, cũng như tổ chức chính trị- xã hội có khi chuyển thành tổ chức xã hội đơn thuần hoặc có thể chuyển hẳn sang hình thức tổ chức đảng phái khi hội đủ những điều kiện của nó” [79, tr.25].
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội với tư cách là một