Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Lực, Hiệu Quả Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Thông Qua Hoạt Động Chất Vấn Của Đại Biểu Quốc Hội


cao trách nhiệm, thực hiện các biện pháp khắc phục những yếu kém trong lĩnh vực mà mình quản lý. Vì vậy, người bị chấp nhận nhận trách nhiệm cá nhân và đưa ra giải pháp khắc phục thì chưa thể tạo ra chuyển biến trong thực tiễn. Do đó, sau khi đưa ra giải pháp khắc phục thì người bị chất vấn với thẩm quyền của mình phải chỉ đạo tổ chức thực hiện các giải pháp đó trong thực tiễn để khắc phục yếu kém, sai sót. Chỉ khi nào làm được điều đó thì chất vấn mới thể hiện đầy đủ là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Chất vấn còn là mục tiêu của một nền dân chủ tiến tới công khai minh bạch. Chất vấn còn là sự xác định trách nhiệm của những người được nhân dân giao phó quyền lực với chủ thể gốc quyền lực là nhân dân thông qua người đại diện đó là Quốc hội và các đại biểu Quốc Hội.

2.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội

Hiệu lực thường được hiểu theo khía cạnh thực thi các quy định, quyết định, yêu cầu mang tính quyền lực nhà nước. Hiệu lực chất vấn thể hiện ở chỗ những yêu cầu chất vấn của đại biểu Quốc hội buộc các đối tượng bị chất vấn phải nghiêm túc giải trình, làm rõ trách nhiệm cá nhân, chỉ ra nguyên nhân của những yếu kém và đưa ra được giải pháp khắc phục. Sau đó, đối tượng bị chất vấn nghiêm túc thực hiện các giải pháp đã đưa ra trước Quốc hội. Hiệu quả chất vấn là việc thực hiện các giải pháp, lời hứa của đối tượng bị chất vấn trước Quốc hội đã góp phần tạo sự chuyển biến tích cực trong thực tiễn, hạn chế và xoá bỏ những yếu kém trong lĩnh vực mà người bị chất vấn quản lý, phụ trách. Như vậy, hiệu lực là điều kiện, tiền đề của hiệu quả; nghĩa là, trước hết phải đảm bảo được hiệu lực đã mới có được hiệu quả.

Hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của chất vấn phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố chính sau

2.2.4.1. Sự hoàn thiện của cơ sở pháp lý cho hoạt động chất vấn

Hệ thống pháp luật về chất vấn có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kiểm


soát quyền lực nhà nước của chất vấn. Bởi lẽ, đó là cơ sở pháp lý cho hoạt động chất vấn. Hoạt động chất vấn phải có một cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, chi tiết làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn. Đó là vì nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, mọi cơ quan, cán bộ công chức chỉ được làm theo những gì pháp luật cho phép, đại biểu Quốc hội cũng vậy. Họ không thể thực hiện hoạt động chất vấn có hiệu quả nếu pháp luật không đưa ra được quy trình, thủ tục thực hiện hoạt động này một cách chi tiết, đầy đủ, không trao đủ quyền lực cho các đại biểu Quốc hội thực hiện hoạt động này như là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Thiếu cơ sở pháp lý, các đại biểu Quốc hội rơi vào tình trạng "lực bất tòng tâm", muốn thực hiện mà không thể thực hiện được. Ví dụ như nếu pháp luật thiếu các quy định cụ thể để đại biểu Quốc hội thể hiện thái độ của mình đối với việc trả lời chất vấn, hay thiếu các chế tài để buộc người trả lời chất vấn phải thực hiện các giải pháp khắc phục, sửa chữa khuyết điểm cũng như nếu không thay đổi thì sẽ có các hình thức xử lý như thế nào thì chắc chắn hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của chất vấn chỉ diễn ra ở trong hội trường.

2.2.4.2. Năng lực chất vấn của đại biểu Quốc hội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

Năng lực thực hiện hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ảnh hưởng rất quan trọng đến hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước của hoạt động này. Cơ sở pháp lý mới là điều kiện cần cho việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực của phương thức giám sát này, điều kiện đủ là năng lực thực tiễn của đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện hoạt động chất vấn. Dù pháp luật có hoàn thiện đến đâu nhưng các đại biểu Quốc hội không có đủ năng lực để thực hiện hoạt động này thì những quy định pháp luật đó cũng trở nên thừa, không được các đại biểu sử dụng hết. Ví dụ như các đại biểu không có đủ dẫn chứng và lý lẽ để truy đuổi trách nhiệm cá nhân của người bị chất vấn đến cùng thì sẽ dễ dàng bị người trả lời chất vấn múa con số. Nếu những vấn đề mà đại biểu đưa ra chỉ là những vấn đề cụ thể, không phát hiện được những


Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay - 12

vấn đề, những hạn chế yếu kém bức xúc, quan trọng nhất trong quản lý nhà nước để buộc những người đứng đầu bộ máy nhà nước phải có những giải pháp khắc phục thì không thể góp phần tạo sự chuyển biến thực sự, rõ rệt trong hoạt động quản lý nhà nước.

2.2.4.3. Khả năng áp dụng các phương tiện hiện đại

Quốc hội đang hướng đến một Quốc hội thông minh của thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thời kỳ số hoá. Các đại biểu Quốc hội muốn hoạt động có hiệu quả, phát huy được vai trò nói chung và hoạt động chất vấn nói riêng cần có kỹ năng, tri thức và cần cả khả năng sử dụng các phương tiện hiện đại. Gần đây Quốc hội nước ta đã đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin, hạn chế sử dụng văn bản giấy mà tăng cường văn bản điện tử trong các dự luật. Các đại biểu Quốc hội ngày càng quen hơn với việc sử dụng các phương tiện hiện đại, thay đổi cách tư duy, cách sử dụng các văn bản truyền thống mà chuyển sang văn bản điện tử và số hoá. Điều này sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng của hoạt động chất vấn đồng thời nâng cao hiệu quả của việc kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động nói chung của các đại biểu Quốc hội nói chung và hoạt động chất vấn nói riêng.


Tiểu kết chương 2


Ở chương này, tác giả đã nêu những vấn đề lý luận chung về kiểm soát quyền lực nhà nước như khái niệm, tính tất yếu khách quan của kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả trình bày khái quát cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay của các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam bao gồm có kiểm soát quyền lực bên trong, giữa các nhánh quyền lực (luận án tập trung làm rõ các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội - lập pháp với hành pháp và tư pháp), kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài (kiểm soát của đảng chính trị, bầu cử, phương tiện truyền thông đại chúng, các tổ chức xã hội dân sự).

Cùng với những vấn đề lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước, tác giả cũng làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Tác giả làm rõ khái niệm về chất vấn theo quy định pháp luật, sự phát triển về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội qua các bản Hiến pháp, qua các quy định pháp luật Việt Nam. Từ đó, tác giả phân tích làm rõ yêu cầu, nội dung và hậu quả pháp lý của chất vấn để phân biệt với các hoạt động khác như hỏi lấy thông tin, điều tra...

Như vậy, những vấn đề lý luận chung về kiểm soát quyền lực nhà nước, về hoạt động chất vấn đã được chương 2 phân tích và làm rõ. Đây là khung lý thuyết quan trọng để tác giả đánh giá về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội như là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước hữu hiệu ở Chương 3.


Chương 3

THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM


3.1. MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở NƯỚC TA

3.1.1. Về tầm quan trọng của hoạt động chất vấn tại kỳ họp

Chất vấn và trả lời chất vấn là một trong những nội dung quan trọng của mỗi kỳ họp Quốc hội được dư luận xã hội và cử tri rất quan tâm. Tuy nhiên, nhận thức về vị trí, vai trò, hình thức, hiệu lực pháp lý của hoạt động chất vấn rất khác nhau.

Mối quan hệ, vị trí, vai trò của hoạt động chất vấn trong hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.

Quốc hội nước ta có những hình thức giám sát cơ bản là xem xét, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật trái luật, nghị quyết của Quốc hội, xem xét báo cáo, thành lập các đoàn đại biểu Quốc hội đi kiểm tra thực tế tại địa phương, bỏ phiếu tín nhiệm, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Các hình thức giám sát này có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội. Thông qua việc xem xét báo cáo của Chính phủ cũng như thành lập các đoàn giám sát tại địa phương, các đại biểu Quốc hội sẽ có sơ sở để Quốc hội có những thông tin phục vụ cho hoạt động chất vấn của mình cũng như giám sát, đánh giá về hiệu quả thực hiện các lời hứa của người trả lời Quốc hội, là cơ sở để Quốc hội thực hiện các hình thức giám sát hậu chất vấn. Đồng thời, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội cũng sẽ là cơ sở cho việc bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh cho Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

Thực tế, một số đại biểu Quốc hội đã nhận thức được vấn đề này. Có những đại biểu đã biết dựa vào kết quả của các hình thức giám sát khác của Quốc hội để làm cơ sở cho hoạt động chất vấn cũng như sử dụng kết quả chất vấn và trả lời chất vấn cho hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh. Tuy


nhiên, vẫn có những đại biểu Quốc hội cũng chưa nhận thức được mối quan hệ này do đó chưa biết kết hợp các hình thức giám sát của Quốc hội trong khi tiến hành hoạt động chất vấn.

Khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn Quốc hội nước ta có quyền giám sát tối cao đối với bộ máy nhà nước,

giám sát cả các văn bản quy phạm pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động của các cơ quan nhà nước (hành pháp, tư pháp), giám sát tất cả các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước các cấp. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội thể hiện tính "tối cao" trong các hình thức giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội. Bởi lẽ, hoạt động chất vấn hướng vào việc kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước (hướng tới hoạt động thực tiễn) và đối tượng giám sát là những người đứng đầu bộ máy nhà nước (các thành viên của Chính phủ, những tổng tư lệnh ngành). Và đặc biệt quan trọng hơn, chất vấn còn hướng đến việc xem xét trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu bộ máy nhà nước ở tầng cao nhất bằng các chế tài cụ thể. Chính vì vậy, so với các hình thức giám sát, các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội thì chất vấn của đại biểu Quốc hội là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả, được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm.

3.1.2. Hoạt động chất vấn của Quốc hội là một trong những phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước

Hoạt động chất vấn của Quốc hội là một trong những phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước vì lý do sau đây:

Về bản chất, chất vấn là đại biểu Quốc hội là người đại diện cho nhân dân, yêu cầu làm rõ các vấn đề bức xúc có ảnh hưởng đến lợi ích của dân đối với những người thực hiện luật, quản lý nhà nước. Chính vì vậy, thông qua những câu hỏi chất vấn của đại biểu Quốc hội, các vị lãnh đạo, quản lý các cơ quan Trung ương thấy rõ những bức xúc, những quan tâm của cử tri cả nước, thấy được những hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục. Mặt khác, hoạt động


chất vấn tạo nên một luồng dư luận, công luận hình thành một sức ép áp đặt trách nhiệm lên những người trả lời chất vấn. Thông qua hoạt động chất vấn, góp phần làm sáng tỏ những vấn đề bức xúc mà thực tiễn đòi hỏi, những bất cập tồn tại trong 1 số quy định pháp luật, những mặt được và chưa được trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức. Khi trả lời chất vấn, đối tượng chịu sự chất vấn không chỉ giải trình về nguyên nhân của sự việc, biện pháp khắc phục hậu quả, rút ra bài học, mà người bị chất vấn phải tự đánh giá trách nhiệm của mình như thế nào đối với vấn đề đó trong vai trò là người đứng đầu cơ quan nhà nước để xảy ra sự việc. Từ việc bị chất vấn, người bị chất vấn có dịp rà soát lại công việc, nhìn nhận lại khả năng, cách thức điều hành, thực hiện của mình để rút kinh nghiệm làm tốt hơn trách nhiệm được giao. Chất vấn ở một khía cạnh nào đó là sự cảnh báo của cơ quan lập pháp, của đại biểu Quốc hội về 1 vấn đề hay 1 tình trạng cần phải được cơ quan hành pháp lưu ý, có chủ trương biện pháp khắc phục. Sự cảnh báo này nhằm nâng cao tính dự báo và trách nhiệm phải nhìn nhận trước vấn đề của người quản lý hành pháp. Qua đó giúp cơ quan quản lý nhà nước có những điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành, khắc phục những hạn chế, bất cập, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý. Thông qua chất vấn, đảm bảo rằng các cơ quan trong hệ thống tổ chức hành động vì lợi ích của nhân dân, hoạt động theo những nguyên tắc, những quy định pháp luật do Quốc hội đề ra, chống sự lãng phí, gian dối, đảm bảo hiệu quả trong quá trình thực thi các chính sách, chương trình, dự án. Hơn nữa, mục đích của chất vấn là kiểm tra năng lực của các quan chức trong việc nắm bắt và xử lý những vấn đề đang xảy ra ở ngành, lĩnh vực của bộ. Thông qua chất vấn, Quốc hội thấy năng lực của người được Quốc hội bầu một cách thực chất nhất, gây sức ép để các cơ quan này hoạt động hiệu quả và theo đúng quy định của pháp luật. Hậu quả pháp lý cao nhất là hình thức chất vấn có thể dẫn đến bỏ phiếu tín nhiệm.

Hiện nay, đa số đại biểu Quốc hội đã nhận thức được chất vấn là một


hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội và sử dụng nó như một phương thức kiểm soát quyền lực, đưa ra những cảnh báo, yêu cầu làm rõ trách nhiệm và phải có những thay đổi trong thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn còn một số đại biểu Quốc hội có thể do chưa nhận thức hoặc thiếu kỹ năng nên sử dụng chất vấn để hỏi lấy thông tin thông thường.

3.2. HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỚI TƯ CÁCH LÀ PHƯƠNG THỨC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

3.2.1. Thực trạng nội dung chất vấn

+ Về chất lượng thông tin

Các chất vấn của đại biểu Quốc hội Việt Nam thời gian qua đã thể hiện các đại biểu đã có sự đầu tư công sức để cập nhật các thông tin cụ thể, chính xác, khá phong phú, đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau để đưa ra những nhận định, đánh giá, những yêu cầu cấp thiết, xác đáng. Tuy nhiên, tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn vẫn bắt gặp những câu hỏi không rõ ý hoặc dựa vào dư luận chung, từ những cảm nhận chủ quan của người chất vấn, thiếu thông tin thực trạng tình hình cụ thể từ các cơ quan, người có trách nhiệm cung cấp chính thức. Nhiều thông tin còn thiếu tính chọn lọc. Đầu tiên là các câu hỏi mang tính giải đáp, cung cấp thông tin. Các câu hỏi này có thể giải đáp nhanh chóng tại Trung tâm Thông tin của Văn phòng Quốc hội, nhưng nhiều đại biểu vẫn dùng để đưa vào chất vấn. Thậm chí, có thể đưa các câu hỏi về các vụ án cụ thể để Trung tâm Thông tin tìm hồ sơ trước khi chất vấn. Ví dụ như tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XIII, đại biểu Nguyễn Ngọc Bảo - đoàn đại biểu tỉnh Vĩnh Phúc chất vấn bộ trưởng Vương Đình Huệ: "Xin hỏi Bộ trưởng rằng Bộ trưởng đã có phương án cùng các bộ, ngành trình lên Thủ tướng về kế hoạch, cơ cấu, ở đây tôi quan tâm nhất là cơ cấu về tài chính, quan trọng nhất là thời gian nào chúng ta làm việc đó. Đó là thứ nhất. Thứ hai, sau khi chúng ta cơ cấu rồi và các tập đoàn, tổng công ty hoạt động trong một vài năm tới nếu tiếp tục thua lỗ thì về phía Bộ tài chính có quan điểm gì về vấn

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 29/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí