Vai Trò Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước


bộ phận quan trọng hợp thành xã hội dân sự, bắt đầu hình thành vào khoảng thế kỉ XVII, XVIII gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế thị trường, với các cuộc cách mạng tư sản và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và những người lao động trong chủ nghĩa tư bản. Hiện nay, các tổ chức chính trị - xã hội ở các nước này tồn tại với nhiều hình thức tổ chức khác nhau có mục tiêu ảnh hưởng đến chính sách công theo hướng có lợi cho mình. Chúng có thể là các nhóm lợi ích, nhóm áp lực, các hiệp hội, nghiệp đoàn, các tổ chức xã hội,… Các tổ chức này ngày càng giữ vai trò, vị trí quan trọng, được xem là “một phần hữu cơ của các thể chế chính trị dân chủ, đóng vai trò quan trọng cho cả nhân dân và chính quyền” [54, tr.132].

Ở các nước XHCN, các tổ chức chính trị - xã hội ra đời xuất phát từ quan điểm của Lênin (1902) về sự cần thiết phải thành lập thêm các “tổ chức dành cho quảng đại quần chúng” bên cạnh tổ chức của Đảng, các tổ chức đó phải tồn tại “ở khắp các nơi, và phải có hết sức nhiều, với những chức năng hết sức phong phú” [47, tr.161] để trở thành những “trợ thủ rất quan trọng cho việc cổ động chính trị và cho tổ chức cách mạng” [47, tr.149]. Hiện nay, các tổ chức chính trị - xã hội vẫn tiếp tục tồn tại ở các nước XHCN, với các hình thức giống nhau như Mặt trận, tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Phụ nữ,... Hầu hết các tổ chức này đều do Đảng Cộng sản sáng lập, được pháp luật thừa nhận và được nhà nước bao cấp kinh phí hoạt động. Tuy nhiên, cùng với xu thế dân chủ hóa đời sống xã hội, các tổ chức xã hội khác cũng xuất hiện, nhiều tổ chức trong số đó có mục tiêu tìm kiếm các chính sách có lợi từ phía nhà nước và có xu hướng chuyển thành các tổ chức chính trị - xã hội theo kiểu các nước tư bản chủ nghĩa (nhóm lợi ích, hiệp hội,…).

2.2.2. Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong kiểm soát quyền lực nhà nước

Thứ nhất, các tổ chức chính trị - xã hội cung cấp cơ sở, nguồn lực cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước

Trong xã hội dân chủ, có nhiều lực lượng cùng hoạt động, và chúng ít nhiều có ảnh hưởng đến quá trình hoạch định chính sách của chính quyền, tác động đến các


cử tri và qua đó gián tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước. Với tư cách là một bộ phận của xã hội dân sự, các tổ chức chính trị - xã hội cung cấp “cơ sở cho việc giới hạn quyền lực nhà nước của xã hội, vì thế, cho việc kiểm soát nhà nước bởi xã hội và do đó, cho các thể chế chính trị dân chủ với tư cách là công cụ thực thi việc kiểm soát đó một cách hữu hiệu nhất” [125, p.52].

Các tổ chức chính trị - xã hội sở hữu nhiều nguồn lực, qua đó, làm tăng khả năng ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính sách và kết quả chính sách. Những nguồn lực quan trọng mà các nhóm lợi ích sở hữu là: “tài chính, tính hợp pháp, hỗ trợ chính trị, kiến thức, chuyên môn và thông tin” [117, p.2].

Là những tổ chức liên hiệp tự nguyện của các tầng lớp dân cư, các tổ chức chính trị - xã hội có sơ sở rộng khắp, số lượng thành viên đông đảo, tham gia ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là điều kiện thuận lợi để phản ánh các vấn đề xã hội; cung cấp những thông tin cần thiết về thực trạng hoạt động của bộ máy nhà nước; phát hiện những hạn chế, sai lầm của các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước; kịp thời “cảnh báo” để nhà nước có sự điều chỉnh phù hợp. Việc cung cấp thông tin của các tổ chức chính trị - xã hội cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau. Có thể thông qua vai trò của các cơ quan dân cử, qua đó, chuyển tải thông tin đến các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước; tác động công khai thông qua các phương tiện truyền thông; thông qua vận động chính sách công; thông qua vai trò của các UB hành động chính trị; hoặc đôi khi trực tiếp thông qua việc thực hiện quyền biểu tình, tự do hội họp, tự do ngôn luận,…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

Với tiềm lực tài chính của mình, các tổ chức chính trị - xã hội có thể tài trợ cho các chiến dịch tranh cử, hỗ trợ đại diện của mình giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử; chi cho các kế hoạch vận động hành lang, gây áp lực để ảnh hưởng đến kết quả chính sách, kiểm soát các quan chức nhà nước. Ngoài ra, với việc sở hữu lực lượng chuyên gia hùng hậu và các tổ chức nghiên cứu chính sách, các tổ chức chính trị - xã hội có thể tham gia tư vấn, phản biện chính sách của nhà nước, cung cấp cơ sở cho hoạt động hoạch định chính sách của nhà nước.


Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 8

Tóm lại, các tổ chức chính trị - xã hội là nơi góp phần tạo ra các nguồn lực cơ bản về kinh tế, tài chính, chính trị, văn hóa, đạo đức cũng như lực lượng để kiềm chế, đối trọng với nhà nước. Nói cách khác, các tổ chức này là nơi cung cấp “vốn xã hội” phong phú, đa dạng cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, góp phần ngăn chặn những sai lầm trong hoạt động của nhà nước, hạn chế sự tùy tiện và xu hướng lạm quyền, cũng như tạo sức ép điều chỉnh chính sách theo hướng phục vụ lợi ích chung của toàn bộ xã hội. Trên thực tế, các thiết chế quyền lực ở đâu và bất cứ thời đại nào cũng có nhiều hạn chế, khuyết điểm, tiềm ẩn nguy cơ mất dân chủ, dễ dẫn đến những hệ lụy ngoài ý muốn. Do đó, các tổ chức chính trị - xã hội được xem như là “van an toàn” cho hệ thống chính trị của các quốc gia, cung cấp cơ sở, nguồn lực cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân và xã hội.

Thứ hai, các tổ chức chính trị - xã hội góp phần thúc đẩy dân chủ, khả năng tự quản của xã hội và công dân, đáp ứng nhu cầu phi tập trung hóa quyền lực, khắc phục tình trạng tập trung quá mức quyền lực nhà nước

Một trong những nguy cơ thường trực của quyền lực nhà nước là tập trung quyền lực quá mức dẫn đến chuyên quyền, độc tài. Để khắc phục tình trạng này, bên cạnh thiết lập các nguyên tắc hiến định trong tổ chức và thực thi quyền lực, cần tạo ra sự cân bằng quyền lực từ phía công dân và xã hội. Robert Dahl, khi phân tích các yếu tố đảm bảo sự cân bằng của nền dân chủ cũng nhấn mạnh, ngoài hệ thống đảng phái cạnh tranh và bầu cử định kì, cần có sự tồn tại của các nhóm lợi ích với quy mô và mục tiêu khác nhau. Giá trị của quá trình dân chủ nằm ở trong nguyên tắc cai trị bởi “những đối lập thiểu số đa dạng”, hơn là nằm trong nguyên tắc thiết lập “sự cai trị của đa số” [34, tr.68].

Sự hoạt động các tổ chức chính trị - xã hội không chỉ góp phần bù đắp những khiếm khuyết của nhà nước mà còn thúc đẩy quá trình chuyển hóa quyền lực từ trung tâm (nhà nước) ra ngoại vi, tạo điều kiện cho các tổ chức mang tính tự nguyện, tự chủ (về tài chính), tự quản phát triển để góp phần củng cố dân chủ. Sự hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của một xã hội dân chủ; đến lượt mình, các tổ chức chính trị - xã hội càng hoạt


động mạnh, “nhiều nguồn lực được thể chế hóa và dân chủ bao nhiêu, càng có khả năng cân bằng các căng thẳng giữa nó và nhà nước, giữa tự trị và hợp tác, giữa bài bác và trung thành”. [116, p.240].

Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị - xã hội còn góp phần thúc đẩy sự phối hợp hành động giữa nhà nước và xã hội, giữa sáng kiến của xã hội dân sự và chính sách, pháp luật của nhà nước. Qua đó, công việc của nhà nước ngày càng có xu hướng xã hội hóa, tạo điều kiện phát huy trí tuệ của cộng đồng, gắn kết nhà nước với xã hội thông qua việc phối hợp hành động, kết quả là các chính sách của nhà nước ngày càng gần dân và có hiệu quả hơn.

Thứ ba, các tổ chức chính trị - xã hội tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước

Trong xã hội hiện đại, mức độ tham gia của người dân vào công việc của nhà nước là một trong những thước đo của nền dân chủ. Các tổ chức chính trị - xã hội tạo ra các kênh phi đảng phái để công dân thể hiện ý kiến, tập hợp lực lượng và đại diện lợi ích. Thậm chí, ở những nước mà các đảng chính trị vẫn bị cấm hay yếu kém, các tổ chức chính trị - xã hội trở thành “kênh duy nhất cho chủ nghĩa tích cực chính trị và xã hội” [56, tr.377]. Từ đó, mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc của nhà nước, làm cho chính sách của chính phủ chuyển từ mô hình thiết kế lý tính sang mô hình thiết kế xã hội, tăng tính minh bạch và thúc đẩy đồng thuận xã hội vì “chính bản hợp xướng tấu lên bởi các nhóm lợi ích tạo nên sự nhất trí về giá trị và tạo nên thước đo đời sống chính trị” [34, tr.68].

Các tổ chức chính trị - xã hội tạo ra các diễn đàn để nhân dân tham gia vào đời sống chính trị, thảo luận, tranh luận, tư vấn, đóng góp ý kiến cho công việc của nhà nước. Sự tham gia này sẽ làm cho các chính sách của nhà nước trở thành các sản phẩm mang tính xã hội, quy tụ được ý kiến của nhiều người, do đó, có điều kiện thuận lợi để thực thi hiệu quả. Hơn nữa, sự tham gia chính trị của nhân dân còn góp phần hạn chế những sai lầm trong hoạch định và thực thi chính sách của chính quyền, nâng cao chất lượng và tính hợp lý của chính sách để hướng đến đáp ứng nhu cầu phát triển của cộng đồng.


Trong những trường hợp cần thiết, thông qua vận động hành lang, gây áp lực,… các tổ chức chính trị - xã hội tạo sức ép để buộc nhà nước phải điều chỉnh chính sách theo hướng có lợi cho xã hội, bảo vệ quyền lợi của các cá nhân, các nhóm thiểu số. Qua đó, đảm bảo sự cân bằng trong thực thi quyền lực nhà nước, không thiên vị hay tạo ra đặc quyền, đặc lợi cho một nhóm người hay một giai tầng nào. Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội còn nêu ra những vấn đề cần thảo luận, bàn bạc không có trong chương trình hành động của các đảng chính trị và chính quyền, “phân tán sự tập quyền từ trên xuống của các thể chế lập pháp và hành pháp và trong quá trình đó kiểm soát được quyền lực của các thể chế này.” [80, tr.38].

Thứ tư, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát, phản biện chính quyền

Giám sát, phản biện chính quyền bằng nhiều phương thức khác nhau là nhu cầu tự thân của xã hội dân chủ, vì các tổ chức và thể chế luôn có xu hướng “chăm sóc cuộc sống riêng của nó”, dẫn đến nguy cơ tha hóa quyền lực. Với tư cách là những tổ chức đại diện cho các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội là một trong những công cụ quan trọng để nhân dân giám sát, phản biện chính quyền, trông chừng sự lạm dụng và vi phạm pháp luật của các quan chức nhà nước.

Giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội là giám sát của nhân dân, của xã hội, mặc dù nó không mang tính quyền lực nhà nước nhưng lại có những ưu điểm vượt trội như tính thường xuyên, liên tục, toàn diện,… Do đó, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho hoạt động giám sát của các thể chế nhà nước. Ở các nước tư bản phát triển, các tổ chức chính trị - xã hội “vừa đứng bên cạnh nhà nước vừa đứng đối mặt với nhà nước”, chúng bổ sung cho nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định, đồng thời “chúng như là lực lượng đối trọng với nhà nước theo nghĩa chúng phản biện nhà nước; chỉ ra những khiếm khuyết của nhà nước; giám sát các hoạt động của nhà nước, gây áp lực với nhà nước để bảo vệ lợi ích của các thành viên” [80, tr.34].

Hoạt động giám sát, phản biện của các tổ chức chính trị - xã hội ở các quốc gia khác nhau được thực hiện bằng nhiều phương thức nhưng mục đích chung là thông qua hoạt động giám sát, phản biện của mình, các tổ chức chính trị - xã hội góp phần phát hiện, ngăn chặn những hành động tùy tiện, sai trái của nhà nước, tạo


áp lực điều chỉnh chính sách, buộc chính phủ phải có trách nhiệm hơn và kiểm tra tính hiệu quả của hệ thống hành chính.

2.2.3. Nội dung, phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội

2.2.3.1. Nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội

Một là, kiểm soát việc tổ chức quyền lực nhà nước

- Kiểm soát cách thức tổ chức quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo việc tuân thủ các quy định của hiến pháp và pháp luật cũng như khả năng vận hành thực tế. Kiểm soát cách thức tổ chức quyền lực nhà nước: kiểm soát quy trình tổ chức, thiết lập nên các cơ quan nhà nước, xác định phạm vi hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương nhằm đảm bảo tính hợp lý, hiệu quả.

- Kiểm soát quy trình lựa chọn (bầu cử, bổ nhiệm) những người thực thi quyền lực nhà nước, đảm bảo tuân thủ pháp luật cũng như lựa chọn được đại biểu xứng đáng, nhất là những người nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước.

Hai là, kiểm soát quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước dưới ba khía cạnh:

- Kiểm soát hoạt động hoạch định, ban hành chính sách của nhà nước, đảm bảo quá trình này tuân thủ các quy định của hiến pháp, pháp luật; nội dung của các chính sách phù hợp với thực tiễn; phản ánh lợi ích, nguyện vọng của nhân dân; không xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân và xã hội.

- Kiểm soát hoạt động tổ chức thực thi quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo các hoạt động này tuân thủ quy định của pháp luật. Chẳng hạn như kiểm soát hoạt động của chính phủ, các bộ, các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương,… nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả thực tế, đồng thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi của công dân.

- Kiểm soát hoạt động bảo vệ pháp luật của tòa án và các cơ quan tư pháp khác nhằm đảm bảo các hoạt động tố tụng, xét xử đúng người, đúng tội, tuân thủ các quy định của pháp luật.

Ba là, kiểm soát những người thực thi quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo quá


trình thực thi nhiệm vụ của các cán bộ, công chức nhà nước tuân thủ hiến pháp, pháp luật, các cam kết chính trị, chuẩn mực đạo đức và có hiệu quả.

2.2.3.2. Phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội

Thứ nhất, các tổ chức chính trị - xã hội kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc tạo ra dư luận xã hội

Các tổ chức chính trị - xã hội có thể sử dụng các nguồn lực mà mình sở hữu như thông tin, tri thức, tài chính, số đông thành viên,… để tạo ra dư luận xã hội nhằm phát động các phong trào ủng hộ hoặc phản đối các chính sách của nhà nước, thực hiện sự kiểm soát đối với các cơ quan nhà nước và quan chức nhà nước.

Cơ chế kiểm soát của các tổ chức chính trị - xã hội đối với quyền lực nhà nước là khi xuất hiện các chính sách có liên quan đến lợi ích của họ, các tổ chức chính trị

- xã hội sẽ tiến hành thảo luận để các thành viên đưa ra ý kiến đánh giá, tập hợp ý kiến của các thành viên để tạo thành sự đồng thuận trong tổ chức của mình, sau đó, tìm kiếm sự ủng hộ của các thành phần dân cư khác để chuyển thành dư luận xã hội để buộc nhà nước phải xem xét, điều chỉnh chính sách theo mong muốn của mình.

Các tổ chức chính trị - xã hội có thể sử dụng sức mạnh của dư luận xã hội để phát động các phong trào ủng hộ các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử, ủng hộ các chính sách của chính phủ mà họ cho là phù hợp. Hoặc “họ có thể lựa chọn tranh luận thay vì thương lượng, với mong muốn là nhằm thay đổi niềm tin và sở thích của người ra quyết định” [117, pg.3]. Thậm chí, có thể phát động các phong trào phản đối, chỉ trích, phê phán các quyết sách của nhà nước, gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hoạch định và điều chỉnh chính sách của giai cấp cầm quyền.

Thông qua sức mạnh của dư luận xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội có thể thúc đẩy sự ra đời hoặc ngăn chặn, hủy bỏ các chính sách của chính phủ; phát hiện, công khai, hạn chế sự tùy tiện và sai lầm của các quan chức; cung cấp thông tin về thực trạng xã hội để nhà nước điều chỉnh chính sách cho phù hợp với nhu cầu xã hội; đưa ra các tư vấn, kiến nghị, đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.


Một trong những công cụ chủ yếu mà các tổ chức chính trị - xã hội sử dụng để tạo ra dư luận xã hội là các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong đời sống chính trị hiện đại, hầu hết các tổ chức chính trị - xã hội đều sở hữu một vài phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, truyền hình, phát thanh, internet, mạng xã hội,… Chẳng hạn như Hiệp hội quốc gia các đài truyền hình Mỹ (NAB) với khoảng

7.500 thành viên là các đài phát thanh và truyền hình, Hiệp hội Báo chí Mỹ (NAA) với hơn 2000 tờ báo thành viên. Ở Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cũng có các cơ quan ngôn luận của mình, như: Tạp chí Mặt trận, Tạp chí Lao động và Công đoàn, Báo Tuổi trẻ,… Các tổ chức chính trị - xã hội thường sử dụng các phương tiện mà mình sở hữu để tạo ra dư luận xã hội, ảnh hưởng công khai đến chính sách, giám sát hành động của chính phủ bằng các phương thức khác nhau.

Với khả năng chuyển tải thông tin nhanh chóng, kịp thời, rộng rãi đến công chúng, các phương tiện truyền thông đại chúng là công cụ hữu hiệu để các nhóm lợi ích thực hiện các chiến dịch vận động tranh cử, huy động cử tri bỏ phiếu cho ứng cử viên là đại diện của nhóm mình. Ở các nước tư bản phát triển, sự hoạt động của các nhóm lợi ích đã làm giảm bớt quyền lực của các đảng chính trị, thậm chí, với sức mạnh của mình, các nhóm lợi ích có thể giúp ứng cử viên giành thắng lợi trong bầu cử mà không cần đến vai trò của các chính đảng.

Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, các tổ chức chính trị - xã hội có thể thực hiện sự giám sát đối với các hoạt động của chính phủ và các thiết chế quyền lực, công khai sự thật đằng sau các các tuyên bố của chính phủ, hạn chế sai lầm trong hoạch định chính sách và buộc các quan chức nhà nước phải có trách nhiệm về những việc làm của mình. Hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để “xây dựng chương trình nghị sự”, buộc nhà nước phải bổ sung hoặc nhấn mạnh đến một vấn đề nào đó đang thu hút sự quan tâm xã hội.

Các tổ chức chính trị - xã hội có thể sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để tạo lập các kênh khác nhau cho người dân tham gia các hoạt động của nhà nước; thiết lập các chủ đề để công dân thảo luận, tranh luận, bày tỏ quan điểm, đóng góp ý kiến về các công việc của nhà nước. Tìm kiếm sự ủng hộ của các tầng lớp

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/06/2022