Những Ảnh Hưởng Của Phương Thức Tổ Chức Quyền Lực Nhà Nước

giá trị tích cực và mang tính sáng tạo, phổ biến nên văn hoá pháp lý về nội dung cần được hiểu với nghĩa là luôn luôn hàm chứa các giá trị hữu ích, tích cực. Mọi hoạt động nếu xuất phát từ nhu cầu không chính đáng của con người đương nhiên sẽ không hàm chứa các giá trị văn hoá và văn hoá pháp lý “ở các nước phương Tây, tôn trọng pháp luật là một truyền thống. Đối với họ không có khái niệm tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật” [17, tr.190] việc tìm hiểu pháp luật ở phương Tây là quyền của mỗi công dân để nhằm mục đích bảo vệ chính lợi ích của mình tại Tòa án, còn ở Việt Nam thì chúng ta chịu nhiều ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo về đạo đức. Do vậy, tâm lý của người Việt là sợ pháp luật "Vạn bất đắc dĩ mới phải ra chốn công đường" [17, tr.183].

Văn hóa có một ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật. Văn hóa chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật, theo lẽ tự nhiên, phải dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng biến thành văn hóa để điều chỉnh cuộc sống. Chính điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành vai trò của Thẩm phán trong pháp luật tố tụng hình sự, bởi vì ban hành một đạo luật không khó bằng việc đưa đạo luật đó vào cuộc sống. Chúng ta có thể căn cứ vào yếu tố chính trị, vào truyền thống pháp luật để quy định về vai trò, về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, nếu không tính đến yếu tố văn hoá thì những quy định đó chỉ là lý thuyết, xa rời thực tiễn.

1.3.3. Những ảnh hưởng của phương thức tổ chức quyền lực nhà nước

Cho dù Nhà nước có được tổ chức theo mô hình nào đi chăng nữa, thì quyền lực nhà nước vẫn luôn là thống nhất, nhưng vẫn phải có sự phân công và phối hợp và kiểm soát giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền tư pháp là nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, hành pháp và đồng nghĩa với quyền xét xử do Toà án thực hiện, do vậy vị trí, vai trò của Toà án nói chung cũng như của Thẩm phán nói riêng phụ thuộc vào quan điểm tư tưởng chỉ đạo của giai cấp cầm quyền. Ví dụ như ở Mỹ, ba nhánh quyền lực này luôn

đối trọng và kiềm chế lẫn nhau, sự phân quyền diễn ra mạnh mẽ. Toà án thực sự giữ vai trò kiềm chế đối với các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Tòa án có quyền kiểm soát tính hợp hiến của luật "Ngay kể cả Tổng thống và Quốc hội cũng không được hỏi Tòa án tối cao về cách giải thích một đạo luật hay một dự án luật nếu như việc này không nằm trong trường hợp của một vụ kiện cụ thể” [17, tr.62], người Mỹ đề cao vai trò của Tòa án trong tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước của mình„'Tiếng nói của Tòa án là tiếng nói cuối cùng, sự giải thích của Tòa án về Hiến pháp có giá trị hơn quan điểm của Quốc hội và Tổng thống” 19, tr.68]. Chính vì vậy người ta coi Thẩm phán là một nghề cao quý trong xã hội. "Luật gia được trọng dụng nhất ở Anh là Thẩm phán" [47, tr.96]. Các Thẩm phán thường được chỉ định trong số các luật sư nổi tiếng. Nói chung các Thẩm phán Tòa án tư sản thường được bổ nhiệm với những nhiệm kỳ khá dài, thậm chí có những nước thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời nếu không phạm tội, Ở Pháp:

Thẩm phán có quyền bất khả bãi miễn [26, tr.145] và được bảo vệ trước mọi sự đe doạ và tấn công khi làm nhiệm vụ. Nhà nước phải bồi thường thiệt hại trực tiếp cho Thẩm phán nếu có những trường hợp mà pháp luật về bảo vệ không quy định. Thẩm phán không bị điều động sang bất kỳ công việc nào khác trừ trường hợp làm nghĩa vụ quân sự [54, tr.145],

Ở nước Australia (Úc) thì: “Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời, không ai có thể cách chức Thẩm phán trừ khi họ vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp và đạo đức. Việc bãi nhiệm Thẩm phán phải được đưa ra Quốc hội tiểu bang hoặc Liên bang với đa số tán thành thì mới được bãi nhiệm” [26, tr.144].

Trong hoạt động xét xử của mình, các Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc xét xử được quy định trong luật tố tụng của từng quốc gia để bảo vệ công lý, công bằng xã hội, tránh sự lợi dụng quyền lực của chính các

Thẩm phán và cũng như để cho Thẩm phán tránh được mọi áp lực từ phía các quan chức nhà nước.

Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa quy định nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước nhưng cũng thừa nhận sự độc lập xét xử của Tòa án. Sự độc lập của Tòa án trong nhà nước xã hội chủ nghĩa có những điểm khác so với sự độc lập trong nhà nước tư sản như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Thứ nhất: Đối với nhà nước tư sản, Tòa án ngang bằng với Quốc hội và có thể tài phán về hành vi của Quốc hội.

Thứ hai: Ở các nước xã hội chủ nghĩa Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; cơ quan Tòa án ở vị thế thấp hơn nên không có quyền tài phán về hành vi của Quốc hội.

Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam - 5

Như đã phân tích ở trên, tương ứng với sự khác biệt với hai hệ thống Tòa án ở hai chế độ nhà nước khác nhau thì vai trò của Thẩm phán đối với từng hệ thống cũng có sự khác biệt về vai trò pháp lý như: “Việc bổ nhiệm thẩm phán Tòa án liên bang Mỹ do Tổng thống bổ nhiệm và cố sự phê chuẩn của Thượng Nghị viện” [17, tr.74]; khác với các nước tư sản, Thẩm phán ở các nước XHCN trước đây thực hiện theo chế độ bầu cử “bởi vì nó gắn liền với tổ chức bộ máy nhà nước hoạt động theo cơ chế chủ tịch tập thể ra quyết định dưới hình thức nghị quyết" [39, tr.58]. Trong tác phẩm "Tinh thần của luật pháp", Mongtexkio của nhà xuất bản Sài Gòn viết:

Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền lập pháp thì sẽ không có tự do. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức [28, tr.84].

Còn ở Việt Nam, chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện từ 1960 đến năm 1992, trong giai đoạn trên pháp luật quy định Hội đồng nhân dân cấp nào thì

bầu ra Thẩm phán Toà án nhân dân ở cấp đó. Nhưng đến Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: "Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án" [33, Điều 88, Khoản 3].

Ngoài các yếu tố trên, để hình thành nên vai trò trung tâm của Thẩm phán trong tố tụng hình sự còn có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng tới quá trình này. Tuy nhiên theo tác giả đây là ba yếu tố cơ bản nhất.


Kết luận Chương 1


Thẩm phán là một chức danh tư pháp có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các vụ án hình sự “Lao động của thẩm phán là lao động trí não, đầy khó khăn, phức tạp đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của công dân” [26, tr.16].

Thẩm phán hoạt động trên những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự. Thẩm phán là một trong các chủ thể tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Việc nghiên cứu đặc điểm của các mô hình tố tụng hình sự giúp chúng ta có cơ sở khoa học để tìm hiểu về thực hiện quyền và nghĩa vụ và vai trò của Thẩm phán. Trong mỗi một mô hình tố tụng thì vai trò, quyền hạn của Thẩm phán đều khác nhau. Tuy nhiên, qua phân tích trên chúng ta có thể nhận thấy vai trò trung tâm của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự, vai trò trung tâm này còn được thể hiện thông qua mối quan hệ với những người tiến hành tố tụng khác.

.

Chương 2

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH


2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta từ 1945 đến nay

2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980

Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời sau cách mạng tháng tám thành công, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật khi nhà nước non trẻ được hình thành cũng như để giữ vững ổn định trật tự xã hội, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật hình sự và tố tụng hình sự như: Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 và sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về thành lập các Tòa án quân sự; sắc lệnh ngày 10/10/1945 về tổ chức các đoàn luật sư...

Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta có ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng; địa vị pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, của người bào chữa và các chủ thể tham gia tố tụng khác; trình tự và thủ tục tiến hành điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Đặc biệt là sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách đầy đủ và tương đối hoàn chỉnh về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự. Những văn bản pháp luật này là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta với một nền tư pháp nhân dân của chế độ mới.

Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 đã quy định hệ thống Tòa án gồm: Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm; Thẩm phán được chia

làm hai ngạch: Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Tòa sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm việc ở Tòa đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm. Các Thẩm phán đệ nhị cấp lại chia thành hai loại: Thẩm phán xét xử và Thẩm phán buộc tội. Thẩm phán xét xử có thể được chuyển sang làm Thẩm phán buộc tội và ngược lại. Theo Điều 27 Sắc lệnh 13 quy định Thẩm phán có quyền hạn rất lớn trong xét xử, mặc dù quy định khi xét xử phải có sự tham gia của phụ thẩm "khi xét xử ngoài Chánh án chủ tọa phiên toà còn có hai phụ thẩm" nhưng quyền hạn của Phụ thẩm còn hạn chế “khi Chánh án hỏi ý kiến của Phụ thẩm về tội trạng các phạm nhân và về hình phạt rồi tự mình quyết định". Thẩm phán là người quyết định sau khi hỏi ý kiến của phụ thẩm. Ngoài ra, Chánh án còn có quyền tuyên phạt đối với hai phụ thẩm.

Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định:

Sau khi nghe các bị can, người làm chứng, cáo trạng của ông biện lý và sau cùng nghe lời bàn cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Thẩm phán và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị án đề cùng xét xử về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội, giảm tội [16, Điều 31].

Nhưng tại Sắc lệnh 51/SL ngày 17/4/1946 quy định về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán như sau:

Ông Chánh án chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ điều khiển cuộc thẩm vấn và bảo vệ trật tự phiên tòa; ông Chánh án nếu cần có thể mở phiên toà ngoài trụ sở của Tòa án, nơi cách xa tòa; mỗi khi tuyên án tử hình, Chánh án bắt buộc phải báo cho tội nhân biết rằng hắn có quyền xin ân giảm và hỏi hắn cố muốn đệ đơn xin không [16].

Về vai trò pháp lý của Thẩm phán trong thời kỳ đầu của Nhà nước ta là cơ sở ban đầu cho việc hoàn thiện hoạt động xét xử sau này.

Hiến pháp 1946 đã ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản của pháp luật

nước ta, trong đó bao gồm cả các nguyên tắc của tố tụng hình sự, đó là: các phiên tòa đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt trong khi xét xử các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật; các cơ quan khác không được can thiệp. Như vậy Hiến pháp 1946 và Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 xác định Tòa án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, giữ một vị trí độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước, đến 1950 Sắc lệnh 85/SL được ban hành, quy định cơ cấu cơ quan Tòa án có sự thay đổi, phụ thẩm nhân dân đổi thành Hội thẩm nhân dân, trong xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.

Năm 1954, nước ta bước vào một giai đoạn mới cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó là xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước. Những thay đổi cơ bản của đất nước và xã hội đòi hỏi cần phải có các văn bản pháp luật mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh. Hiến pháp năm 1959 và các văn bản pháp luật khác trong đó có văn bản pháp luật tố tụng hình sự được ban hành trong thời gian này đã kịp thời đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội theo hướng dân chủ hoá các quy định để điều chỉnh các quan hệ trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày 14/7/1960 Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức tòa án nhân dân và quy định phân cấp hệ thống Tòa án gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội thành lập các Tòa án đặc biệt.

Nhiệm vụ của công tác xét xử trong giai đoạn này là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, bảo vệ trật tự xã hội, tài sản công cộng và quyền lợi hợp pháp của nhân dân góp phần đảm bảo sự nghiệp đấu tranh giải phóng thống nhất đất nước. Song qua các văn bản pháp luật đó chúng ta cũng xác định được vai trò pháp lý của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng và được thể

hiện ở những nguyên tắc tố tụng như: sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án trong đó Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân và khi tham gia xét xử ngang quyền với với nhau; Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.

Ngày 27/9/1974 Tòa án nhân dân Tối cao ban hành thông tư 16 - TATC ban hành kèm theo Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự đã quy định rõ vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự như: tại phiên tòa sơ thẩm, chủ tọa phải kiểm tra căn cước của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách nhiệm bồi thường và những người có tài sản, quyền lợi liên quan đến việc phạm pháp; giải thích quyền và nghĩa vụ để những người tham gia tố tụng biết; giới thiệu thành viên Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa, người phiên dịch, thư ký phiên tòa; điều hành phần xét hỏi, tranh luận và giữ gìn trật tự phiên tòa; tại phần xét hỏi, chủ tọa hỏi trước, các Hội thẩm hỏi bổ sung; ở phần nghị án, Hội đồng xét xử cùng thảo luận và biểu quyết theo đa số; Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ tuyên đọc bản án. Quy định trên hầu như được giữ nguyên đến khi chúng ta ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và khẳng định Thẩm phán giữ vai trò, vị trí trung tâm trong hoạt động xét xử, Thẩm phán là người điều khiển phiên tòa với nhiều trọng trách vừa chứng minh tội phạm, vừa quyết định hình phạt, vừa đảm bảo phiên tòa diễn ra đúng luật định và Thẩm phán còn phải giúp Hội thẩm nắm được pháp luật, đường lối, chính sách, đồng thời phải tích cực phát huy vai trò của Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử tại phiên tòa.

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992

Trong giai đoạn này Hiến pháp năm 1980 đã được Quốc hội Khóa VI thông qua ngày 18/12/1980, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 thông qua ngày 03/7/1981, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thông qua ngày

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí