trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát quyền lực nhà nước; về các tổ chức chính trị - xã hội; vai trò, nội dung, phương thức, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội đã được các nhà khoa học làm rò ở nhiều khía cạnh khác nhau. Kết quả nghiên cứu của các công trình này sẽ cung cấp dữ liệu để tác giả tham khảo và triển khai các nội dung trong luận án.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu mới chỉ tập trung làm rò các vấn đề về kiểm soát quyền lực nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, và có đề cập ít nhiều đến vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Những vấn đề cơ bản về nội dung, phương thức, hiệu lực pháp lý, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị xã - hội ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều khoảng trống; việc xác định các quan điểm, giải pháp để nâng cao vai trò của các tổ chức này trong việc tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta vẫn chưa được trình bày một cách có logic, hệ thống dựa trên cơ sở phân tích thực tế.
Tổng quan tình hình nghiên cứu giúp luận án tìm kiếm những giá trị có thể kế thừa và phát triển từ các công trình đã công bố, đồng thời, trên cơ sở đó triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu của mình một cách có hệ thống, góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp khoa học để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay.
Chương 2.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
2.1. LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
2.1.1. Khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước
Có thể bạn quan tâm!
- Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 2
- Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay - 3
- Những Nội Dung Đã Được Đề Cập Có Ý Nghĩa Đối Với Đề Tài
- Giới Hạn Quyền Lực Nhà Nước Bằng Hiến Pháp Và Pháp Luật
- Quan Niệm Về Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội
- Vai Trò Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
Bản chất của con người, như Aristotle khẳng định, là một động vật chính trị, có thiên hướng gắn kết với nhau trong các cộng đồng. Cuộc sống cộng đồng tất yếu đòi hỏi phải hình thành một quyền lực chung để thiết lập các quy tắc, trật tự đảm bảo cho sự tồn tại của cộng đồng cũng như bảo vệ lợi ích các thành viên. Quyền lực chung đó được hình thành từ sự ủy quyền của các thành viên cộng đồng xã hội được gọi là quyền lực công cộng. Quyền lực công cộng được thiết lập trong phạm vi toàn xã hội, trong một biên giới quốc gia được xác lập chủ quyền gọi là quyền lực công. Như vậy quyền lực công cộng và quyền lực công có cùng hình thức tổ chức, chỉ khác là phạm vi, quy mô của nó mà thôi. Trong xã hội có sự phân hóa giai cấp và đấu tranh giai cấp, quyền lực công kết hợp với quyền lực chính trị của các giai cấp, các lực lượng xã hội chuyển hóa thành quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước do giai cấp giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế nắm giữ, một mặt, để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp mình, đồng thời, mặt khác, duy trì sự ổn định và phát triển của toàn xã hội. Như vậy, quyền lực nhà nước có nguồn gốc là quyền lực công của xã hội và quyền lực chính trị của các giai cấp mà chủ yếu là giai cấp thống trị về kinh tế, được tổ chức thành nhà nước, thực hiện chức năng chính trị và chức năng xã hội.
Quyền lực của bất kỳ nhà nước nào, ban đầu đều được hình thành từ ba loại quyền lực: (i) Quyền quyết định, (ii) Quyền thực thi các quyết định, (iii) Quyền xét xử những ai vi phạm các quyết định. Các quyền này về sau phát triển thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trên cơ sở các quyền, bộ máy nhà nước sẽ được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp, có chức năng nhiệm vụ khác nhau, độc lập với nhau trong thực thi quyền lực nhà nước và thường được gọi là “ba nhánh quyền lực”. Tương ứng với các cơ quan quyền lực
này, bộ máy nhà nước được tổ chức thành nghị viện, chính phủ và tòa án.
Trong xã hội hiện đại, ba nhánh quyền lực về cơ bản được tổ chức như sau: 1) Quyền lập pháp là quyền ban hành hiến pháp và luật, do cơ quan đại diện của nhân dân là Quốc hội (Nghị viện) thực hiện; 2) Quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào tổ chức và quản lý xã hội, quyền hành pháp do bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương (Chính phủ) tới địa phương thực hiện; 3) Quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, thông qua việc xét xử những ai vi phạm, do các tòa án thực hiện.
Quyền lực nhà nước một mặt là tập trung cao nhất của ý chí chung của toàn xã hội, là yếu tố không thể thiếu để tổ chức và quản lý xã hội, mặt khác nó luôn tiềm ẩn nguy cơ bị tha hóa, dẫn đến sự lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán, được sử dụng để phục vụ cho lợi ích của các cá nhân hoặc nhóm người nào đó trong xã hội, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước. Do đó, muốn sử dụng đúng đắn quyền lực nhà nước, tất yếu phải có cơ chế kiểm soát để ngăn chặn sự tha hóa quyền lực.
Về mặt khái niệm, kiểm soát quyền lực nhà nước được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, bao gồm những cách hiểu rộng, hẹp khác nhau. Nội hàm của khái niệm này cho đến nay chưa thực sự được thống nhất, tuy nhiên, không ngừng được bổ sung, phát triển để ngày càng hoàn thiện.
Để hiểu thế nào là kiểm soát quyền lực nước, cần thiết phải bắt đầu từ khái niệm kiểm soát. Kiểm soát được hiểu là “xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”, “đặt trong phạm vi quyền hành của mình” [105, tr.523]. Từ cách cắt nghĩa như vậy, có thể hiểu, kiểm soát quyền lực nhà nước là việc xem xét, phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.
Theo nghĩa rộng, kiểm soát quyền lực nhà nước gồm các hoạt động liên quan đến quá trình thiết kế, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước để đạt được mục đích chung và đạt hiệu quả cao nhất. Dưới góc độ này, kiểm soát quyền lực nhà nước được xem xét theo quan điểm hệ thống, liên quan đến tất cả các khâu, các bộ phận,
các quá trình của việc hoạch định và thực thi quyết sách chính trị của lực lượng cầm quyền. Để kiểm soát quyền lực có hiệu quả, việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc, cơ chế nhất định. Những nguyên tắc đó, vừa mang tính phổ quát được áp dụng cho mọi mô hình nhà nước, vừa mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện, đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia.
Theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ phương thức, quy trình, quy định, công cụ, phương tiện để ngăn ngừa, phát hiện, ngăn chặn và loại bỏ các hoạt động sai trái của nhà nước, điều chỉnh việc thực thi quyền lực đúng quy định nhằm đảm bảo tính đúng đắn và hiệu quả.
Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, có thể là ở bên trong hoặc bên ngoài bộ máy nhà nước; bằng các phương thức, cơ chế, biện pháp khác nhau, có thể là thông qua các cơ chế kiểm soát mang tính quyền lực của các cơ quan công quyền, nhưng cũng có thể là sự giám sát mang tính xã hội. Ở một khía cạnh khác, kiểm soát quyền lực nhà nước cũng có thể hiểu là sự tự xem xét, tự kiểm soát của các chủ thể quyền lực thông qua việc nhận thức và điều chỉnh theo các chuẩn mực đạo đức, văn hóa chính trị; hoặc được kiểm soát bởi các thể chế với mục đích ngăn chặn, trừng phạt.
Chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng, có thể là các cá nhân, tổ chức khác nhau nhưng đặc điểm chung là các chủ thể đó phải có quyền lực thì mới kiểm soát được quyền lực.
- Nhân dân: Trong quá trình ủy quyền để tổ chức ra các cơ quan quyền lực nhà nước, nhân dân, chủ thể gốc của quyền lực nhà nước, chỉ ủy một phần quyền nhỏ, còn cơ bản vẫn giữ lại và là tối thượng. Vì vậy, có thể nói, chủ thể quan trọng nhất của kiểm soát quyền lực nhà nước là nhân dân. Nhưng nhân dân không tồn tại một cách trừu tượng, đơn lẻ, mà nhân dân thường tồn tại trong các tổ chức như: chính trị (đảng phái), tổ chức chính trị - xã hội; các tổ chức, các cộng đồng khác của xã hội công dân. Trong đó các tổ chức chính trị - xã hội là một loại thể chế có vai trò khách quan trong thực thi quyền lực của nhân dân và kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Các cơ quan quyền lực nhà nước: Về cơ bản, như trên đã nói, có ba cơ quan
quyền lực nhà nước lập pháp hành pháp, tư pháp. Các cơ quan này một mặt vừa phối hợp hành động trong thực thi quyền lực nhà nước, mặt khác vừa kiềm chế, chế ước lẫn nhau để tránh sự chuyên quyền và lạm quyền.
Đối tượng của kiểm soát quyền lực nhà nước là các cá nhân, tổ chức, cơ quan được ủy quyền nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước ở những mức độ khác nhau trong tất cả các lĩnh vực của bộ máy nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp; ở tất cả các cấp của nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước cũng rất rộng lớn, bao gồm kiểm soát hoạt động tổ chức quyền lực nhà nước, kiểm soát quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước và kiểm soát những người thực thi quyền lực nhà nước.
Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước là: 1) đảm bảo quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích; 2) đảm bảo quyền lực nhà nước được thực thi hiệu quả. [89, tr.37]. Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhằm xác lập các nguyên tắc, thể chế để quyền lực nhà nước được thực thi đúng đắn, đạt được mục đích và hiệu quả cao nhất. Đồng thời, ngăn chặn tình trạng tha hóa, lạm dụng quyền lực và xu hướng độc tài chính trị, khắc phục những nan giải của chính phủ đại diện trong quá trình hoạt động.
Kiểm soát quyền lực nhà nước, trên thực tế được tiến hành dưới nhiều hình thức hoạt động của các cá nhân, tổ chức, cơ quan khác nhau như: Chế định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quyền lực nhà nước, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát và phản biện xã hội.
Giám sát là “theo dòi, kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không” [105, tr.389]. Ở Việt Nam, hệ thống giám sát gồm hai loại: giám sát mang tính quyền lực nhà nước và giám sát không mang tính quyền lực nhà nước (giám sát xã hội). Giám sát mang tính quyền lực nhà nước là giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của HĐND các cấp, giám sát của cơ quan tài phán. Đặc trưng của loại hình giám sát này là được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để buộc đối tượng phải điều chỉnh hoặc chịu trách nhiệm cho những vi phạm của mình. Giám sát xã hội bao gồm giám sát của nhân
dân, của các tổ chức chính trị - xã hội, của các phương tiện thông tin đại chúng,… Đặc trưng của loại hình giám sát này là không mang tính quyền lực nhà nước, nhưng có tác dụng hỗ trợ cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc thể hiện sự tín nhiệm hoặc không tín nhiệm của người dân trong các cuộc thăm dò, cung cấp thông tin, phê bình, lên án, khiếu nại, tố cáo, phản biện, kiến nghị, đề xuất,…
Kiểm tra được hiểu là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [105, tr.538]. Kiểm tra là chức năng của chủ thể quản lý, là việc xem xét, đánh giá hoạt động của đối tượng quản lý có đúng theo quy định hay không. Trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước, mục đích của hoạt động kiểm tra là tìm kiếm động cơ, nguyên nhân của việc không hoàn thành các nhiệm vụ được giao; chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong quản lý, xác định nguyên nhân và đưa ra những biện pháp điều chỉnh, khắc phục; kịp thời phát hiện các vi phạm pháp luật, nguyên nhân của nó, đưa ra các biện pháp xử lý, đề xuất biện pháp phòng ngừa.
Thanh tra là hoạt động của cơ quan chức năng có thẩm quyền và chuyên môn để “kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” [105, tr.929]. Mục đích của hoạt động thanh tra là “nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [70].
Kiểm sát là “kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật của nhà nước” [105, tr.523]. Ở nước ta, kiểm sát là chức năng của VKSND. Mục đích hoạt động kiểm sát của VKSND là “kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật” [71].
Phản biện xã hội là “hoạt động mang tính xã hội nhằm bày tỏ ý kiến, chính kiến, bình luận, tranh cãi, thảo luận, nhận xét, đánh giá, thẩm định của các tổ chức, cộng đồng, bằng những phương thức nhất định (thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các cá nhân, phương tiện truyền thông,…) đối với những vấn đề mà xã hội quan tâm” [80, tr.247]. Phản biện xã hội là nhu cầu khách quan cho sự phát triển của xã hội, là một trong những phương thức thực thi dân chủ. Phản biện xã hội góp phần điều tiết xung đột giữa các nhóm để tạo ra đồng thuận xã hội; góp phần nâng cao trách nhiệm của người dân, của cộng đồng; và quan trọng hơn, phản biện xã hội là một hình thức để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, góp phần hạn chế những sai lầm trong việc hoạch định và thực thi chính sách của nhà nước, tạo áp lực để điều chỉnh chính sách theo hướng phục vụ lợi ích cộng đồng, đảm bảo quyền lực nhà nước được thực thi đúng mục đích và có hiệu quả.
Tóm lại, kiểm soát quyền lực nhà nước, trên thực tế, là một hoạt động phức tạp, nhưng đồng thời cũng là yêu cầu không thể thiếu trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước như: giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, phản biện xã hội,… mặc dù có sự khác nhau về chủ thể thực hiện, đặc điểm, tính chất, phương pháp tiến hành,… nhưng đều hướng đến mục đích chung là ngăn chặn sự tha hóa trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, góp phần hạn chế những sai lầm của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước, phát hiện, xử lý các sai phạm để đảm bảo quyền lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích và có hiệu quả.
2.1.2. Tính tất yếu của kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tự nhiên của xã hội loài người, xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, đồng thời cũng là vấn đề nan giải đối với các quốc gia. “Trong việc tạo dựng một chính phủ được những con người quản lý để cai trị những con người khác, khó khăn lớn nằm trong điều này: trước hết anh
phải làm cho chính phủ có khả năng kiểm soát những người bị cai trị, và điều tiếp theo sau là buộc chính phủ phải tự kiểm soát mình” [122].
Một là, quyền lực nhà nước mang tính đại diện nên luôn tiềm ẩn nguy cơ tha hóa, đi chệch khỏi mục đích ban đầu của chủ thể quyền lực (nhân dân)
Trong xã hội dân chủ, quyền lực nhà nước không mang tính tự thân, mà được hình thành từ sự ủy quyền của nhân dân. Nhân dân, với tư cách là lực lượng chính sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần của đời sống xã hội, là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực hiện ủy một phần quyền của mình cho những người đại diện thông qua bầu cử để họ có đủ quyền lực tổ chức ra bộ máy nhà nước và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích cộng đồng theo những cam kết trong “khế ước”.
Vấn đề đặt ra là sau khi thực hiện ủy quyền, quyền lực nhà nước không còn nằm trực tiếp trong tay nhân dân, và nó có thể được sử dụng cho những mục đích khác không được ghi nhận trong “khế ước”, thậm chí là đi ngược lại với những cam kết ban đầu. “Logic tự nhiên của quyền lực, như Jean Jacques Rousseau đã nhắc nhở, luôn đi theo xu hướng lạm quyền, dù ban đầu động cơ khởi thủy của quyền lực có thể là vì dân một cách trong sáng” [73, tr.47].
Tình trạng này gọi là sự tha hóa quyền lực, quyền lực bị biến dạng trở thành cái đối lập với mục tiêu được xác định lúc đầu. Sự tha hóa của quyền lực nhà nước xuất phát từ tính đại diện, được tập trung vào tay một người hay nhóm người nắm giữ, ý chí chung của tập thể được một người hay nhóm người điều khiển nên họ dễ dàng sử dụng cho mục đích riêng dẫn đến tha hoá quyền lực. Mức độ đại diện càng lớn, tính gián đoạn càng dài, sự tập trung càng cao thì quyền lực lại càng xa với cái gốc rễ ban đầu và nguy cơ trở thành cái đối lập với nền tảng đó.
Thực tế cho thấy, bất kì mô hình nhà nước nào, ở bất kì quốc gia nào cũng phải đối diện với nguy cơ tha hóa quyền lực. “Quyền lực không bị kiểm soát, không có chế tài luôn là điều nguy hiểm. Cho đến nay, chưa có trường hợp nào thực sự an toàn khi quyền lực tuyệt đối rơi vào tay một người hoặc một nhóm người. Điều này đòi hỏi mọi quyền lực phải được kiểm soát bởi một cơ chế pháp lý, có chế tài minh bạch” [73, tr.47].