Mối Quan Hệ Giữa Nhân Tố Nỗ Lực Kỳ Vọng Với Ý Định/mức Độ Sử Dụng


Vì vậy, giả thuyết được đưa ra là:

H1c: Mối quan hệ thuận chiều giữa Hiệu quả kỳ vọng với Ý định sử dụng/mức độ

sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở những người trẻ tuổi

H1d: Mối quan hệ thuận chiều giữa Hiệu quả kỳ vọng với Ý định sử dụng/mức độ

sử dụng Internet Banking mạnh hơn đối với nam giới.

4.3.2. Mối quan hệ giữa nhân tố Nỗ lực kỳ vọng với Ý định/mức độ sử dụng

Theo lý thuyết UTAUT của Venkatest và cộng sự (2003), nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” có tác động mạnh trực tiếp tới “Hành vi ý định sử dụng” và gián tiếp tới “Hành vi sử dụng” hệ thống công nghệ của cá nhân.Trong các nghiên cứu thực nghiệm nước ngoài về việc sử dụng Internet Banking, kết quả đều chỉ ra rằng nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” có ảnh hưởng đáng kể trực tiếp hoặc gián tiếp Hành vi ý định/Ý định sử dụng Internet Banking của khách hàng (Foon và cộng sự, 2011; Saibaba and Naryana, 2013; Gang Liu và cộng sự, 2008; Dong, 2009; Kholound Ibrahim, 2009; Koloud and Ghaith, 2013; Emad and Michael , 2009; Chung-Hung, 2013...). Nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” trong mô hình UTUAT được xem là có tương đồng với nhân tố “Dễ sử dụng cảm nhận” của mô hình TAM. Nhân tố “Dễ sử dụng” cũng được khá nhiều các nghiên cứu trước đó (ví dụ: Ingoo and Bomil, 2002; Kent Ericksson, 2005; Al-Majali và cộng sự, 2010...) cho là có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới Ý định sử dụng Internet Banking của khách hàng. Khách hàng sử dụng Internet Banking ở Malaysia cảm nhận dễ sử dụng hơn khách hàng không sử dụng Internet Banking (Jayarman và cộng sự, 2012). Thiết kế trang web tốt sẽ tăng sự cảm nhận dễ sử dụng từ đó ảnh hưởng ý định của khách hàng sử dụng (Kesharwani và cộng sự, 2012).

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Siu-Cheung (2002), Kholound Ibrahim (2009), Kolound and Ghaith (2013) chỉ ra rằng nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” cũng có sự tác động tích cực đáng kể tới “Mức độ sử dụng Internet Banking” của khách hàng đang sử dụng. Nhân tố “Cảm nhận dễ sử dụng” ảnh hưởng tích cực tới mức độ sử dụng Internet Banking với khách đang sử dụng ở Hồng Kông (Yiu và cộng sự, 2007). Hay Kent Ericksson và cộng sự (2005) cho rằng nhân tố “Cảm nhận dễ sử dụng” ảnh hưởng gián tiếp qua nhân tố “Hữu ích cảm nhận” tới mức độ sử dụng Internet Banking ở Estonia.

Ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu nào về Internet Banking sử dụng lý thuyết UTAUT với nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” nhưng có một vài nghiên cứu sử dụng nhân tố tương đồng là “Dễ sử dụng”. Các kết quả chỉ ra rằng nhân tố “Dễ sử dụng” có ảnh hưởng mạnh trực tiếp hoặc gián tiếp tới ý định sử dụng của khách hàng (Lê Thị Kim Tuyết, 2008; Lê Phan Thị Diệu Thảo, 2013; Phạm Thùy Giang và cộng sự, 2014). Ở

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 290 trang tài liệu này.


Việt Nam, có rất nhiều người thiếu kinh nghiệm về Internet, họ sợ phức tạp, đặc biệt là những người nhiều tuổi, những người mới bắt đầu sử dụng Internet Banking. Vì vậy, nhân tố “Nỗ lực kỳ vọng” có ảnh hưởng đáng kể tích cực tới Ý định sử dụng/mức độ sử dụng của người chưa sử dụng/đang sử dụng Internet Banking.

Các nhân tố ảnh hưởng tới việc sử dụng Internet Banking của khách hàng ở các ngân hàng thương mại Việt Nam - 9

Giả thuyết nghiên cứu của tác giả như sau:

H2a: Nỗ lực kỳ vọng có ảnh hưởng thuận chiều với Ý định sử dụng Internet Banking đối với khách hàng chưa sử dụng

H2b: Nỗ lực kỳ vọng có ảnh hưởng thuận chiều với Mức độ sử dụng Internet Banking đối với khách hàng đang sử dụng

Venkatest và cộng sự (2003) cho rằng giới tính, độ tuổi, kinh nghiệm điều tiết mối quan hệ giữa biến độc lập “Nỗ lực kỳ vọng” tới biến phụ thuộc “Hành vi ý định sử dụng”. Cụ thể, mối quan hệ thuận chiều giữa “Nỗ lực kỳ vọng” tới “Hành vi ý định” mạnh mẽ hơn với nữ giới so với nam giới, và với những người nhiều tuổi; những người ít kinh nghiệm. Điều này cũng được khẳng định trong nghiên cứu việc sử dụng Internet Banking của Emad and Michael (2009), Apostolos và cộng sự (2012), Chung- Hung (2013), Kholound Ibrahim (2009). Đặc biệt, Kholound Ibrahim (2009) còn chỉ ra có sự khác biệt giữa UK và Jodan về sự tác động của biến điều tiết “Giới tính”, “Độ tuổi” trong mối quan hệ giữa “Nỗ lực kỳ vọng” và “Sử dụng Internet Banking”. “Giới tính”, “Độ tuổi” không ảnh hưởng ở UK nhưng ảnh hưởng mạnh ở Jodan trong đó mạnh mẽ hơn nữ giới so với nam giới, và mạnh mẽ hơn với người lớn tuổi so với nhóm người ít tuổi hơn. Có điều này là do dịch vụ Internet Banking là dịch vụ ngân hàng điện tử, ứng dụng công nghệ cao thực hiện qua mạng Internet vì vậy sẽ là khó khăn cho những người lớn tuổi, nữ giới và đặc biệt là những người có ít kinh nghiệm kiến thức về Internet.

Vì vậy, tác giả đưa ra các giả thuyết sau:

H2c: Mối quan hệ thuận chiều giữa Nỗ lực kỳ vọng với Ý định sử dụng/mức độ

sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở những người lớn tuổi

H2d: Mối quan hệ thuận chiều giữa Nỗ lực kỳ vọng với Ý định sử dụng/mức độ

sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở những người nữ giới.

H2e: Mối quan hệ thuận chiều giữa Nỗ lực kỳ vọng với Ý định sử dụng/mức độ

sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở những người ít kinh nghiệm Internet.


4.3.3. Mối quan hệ giữa nhân tố Ảnh hưởng xã hội với Ý định/mức độ sử dụng

Theo kết quả nghiên cứu của Venkatesh và cộng sự (2003), nhân tố “Ảnh hưởng xã hội” có ảnh hưởng tích cực và đáng kể tới “Hành vi ý định sử dụng” và ảnh hưởng gián tiếp tới “Hành vi sử dụng thực tế” hệ thống công nghệ. Kết luận này cũng được khẳng định trong một số nghiên cứu về việc chấp nhận sử dụng Internet Banking của khách hàng như nghiên cứu của Foon và cộng sự (2011) ở Malaysia, Saibaba và Naryana (2013) ở Ấn Độ, Dong (2009) ở Trung Quốc, Kolound and Ghaith (2013), Emad and Michael (2009) ở Jodan.... Hành vi tiêu dùng của cá nhân bị ảnh hưởng bởi yếu tố xã hội (Philip Kotler, 2013). Ở Việt Nam, người tiêu dùng thường hay bị tác động bởi người khác, thường tiêu dùng theo số đông. Vì vậy, nhân tố “Ảnh hưởng xã hội” là một trong những nhân tố có lẽ sẽ có ảnh hưởng tích cực tới Ý định sử dụng/mức độ sử dụng của khách hàng đối với dịch vụ Internet Banking.

Giả thuyết nghiên cứu của tác giả:

H3a: Ảnh hưởng xã hội có ảnh hưởng thuận chiều với Ý định sử dụng Internet Banking đối với khách hàng chưa sử dụng

H3b: Ảnh hưởng xã hội có ảnh hưởng thuận chiều với Mức độ sử dụng Internet Banking đối với khách hàng đang sử dụng

Kết quả của các nghiên cứu trước đây về Internet Banking (ví dụ: Emad and Michael (2009), Kholound Ibrahim (2009), Chung-Hung (2013)) chỉ ra rằng biến nhân khẩu (tuổi, giới tính) có tác động điều tiết mối quan hệ giữa “Ảnh hưởng xã hội” với “Ý định/mức độ sử dụng Internet Banking”. Venkatest và cộng sự (2003) cho rằng tuổi, giới tính điều tiết mối quan hệ giữa biến độc lập “Ảnh hưởng xã hội” với biến phụ thuộc “Hành vi ý định sử dụng”. Cụ thể, mối quan hệ thuận chiều giữa “Ảnh hưởng xã hội” với “Ý định sử dụng/mức độ sử dụng Internet Banking” mạnh mẽ hơn đối với người nữ giới. Tính cách của nữ, nam có sự khác nhau, nữ giới tỏ ra nhạy cảm hơn so với nam giới, nữ giới dễ bị lay động bởi người khác (Thụy Miên, 2012). Tương tự, mối quan hệ thuận chiều giữa “Ảnh hưởng xã hội” tới “Ý định sử dụng/Mức độ sử dụng Internet Banking” mạnh mẽ hơn với những người trẻ tuổi. Điều này là do những người trẻ tuổi họ thường không suy nghĩ kỹ càng khi thực hiện một quyết định mua sắm như người lớn tuổi, dễ bị ảnh hưởng tiêu dùng bởi người khác. Ngoài ra, ở Việt Nam mối quan hệ thuận chiều giữa “Ảnh hưởng xã hội” tới “Ý định sử dụng/Mức độ sử dụng Internet Banking” mạnh mẽ hơn với những người có kinh nghiệm Internet. Bởi vì thời đại hiện nay là thời đại của công nghệ thông tin Internet, mọi người thường chia sẻ trên mạng các thông tin và với những người thường xuyên truy cập Internet thì


dễ tiếp cận các thông tin hơn, họ dễ bị ảnh hưởng tiêu dùng bởi những người khác chia sẽ trên mạng (mạng xã hội).

Giả thuyết của nghiên cứu này là:

H3c: Mối quan hệ thuận chiều giữa Ảnh hưởng xã hội với Ý định sử dụng/mức

độ sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở những người trẻ tuổi

H3d: Mối quan hệ thuận chiều giữa Ảnh hưởng xã hội với Ý định sử dụng/mức

độ sử dụng Internet banking mạnh hơn ở nữ giới

H3e: Mối quan hệ thuận chiều giữa Ảnh hưởng xã hội với ý định sử dụng/mức

độ sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở những người có nhiều kinh nghiệm Internet

4.3.4. Mối quan hệ giữa nhân tố Điều kiện thuận lợi với Ý định/mức độ sử dụng

Theo kết quả nghiên cứu của Venkatesh và cộng sự (2003) chỉ ra nhân tố “Điều kiện thuận lợi” có ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi sử dụng công nghệ. Foon và cộng sự (2011), Dong (2009) cũng cho rằng nhân tố “Điều kiện thuận lợi” có ảnh hưởng đáng kể tới ý định sử dụng Internet Banking. Hay Emad and Michael (2009) chỉ ra rằng nhân tố “Điều kiện thuận lợi” có ảnh hưởng đáng kể tới hành vi ý định sử dụng Internet Banking. Ở Việt Nam, người có kinh nghiệm Internet chưa nhiều đặc biệt là những người lớn tuổi mà những người lớn tuổi thì họ thường ngại phức tạp, lo sợ gặp sự cố khi sử dụng thì không thể tự xử lý nhưng nếu được sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi của ngân hàng thì có lẽ họ sẽ chấp nhận sử dụng đối với người chưa sử dụng hoặc sẽ sử dụng nhiều hơn đối với người đã đang sử dụng. Vậy giả thuyết đưa ra:

H4a: Điều kiện thuận lợi có ảnh hưởng thuận chiều với Ý định sử dụng Internet Banking đối với khách hàng chưa sử dụng

H4b: Điều kiện thuận lợi có ảnh hưởng thuận chiều với Mức độ sử dụng Internet Banking đối với khách hàng đang sử dụng.

Ngoài ra theo kết quả nghiên cứu của Venkatest và cộng sự (2003) còn chỉ ra rằng độ tuổi, kinh nghiệm của cá nhân có tác động điều tiết mối quan hệ giữa “Điều kiện thuận lợi” và “Hành vi sử dụng công nghệ”. Cụ thể, mối quan hệ thuận chiều giữa “Điều kiện thuận lợi” tới “Hành vi sử dụng công nghệ” mạnh mẽ hơn với những người lớn tuổi và đặc biệt là người có ít kinh nghiệm. Điều này cũng được khẳng định trong nghiên cứu thực nghiêm về Internet Banking của Emad and Michael (2009) và ngoài ra Emad and Michael (2009) còn chỉ ra rằng giới tính điều tiết mối quan hệ thuận chiều giữa “Điều kiện thuận lợi” và “Ý định sử dụng” trong đó mạnh hơn với nữ giới. Điều này có lẽ sẽ đúng với khách hàng ở NHTM Việt Nam, bởi vì những người lớn


tuổi đặc biệt là những người có ít kinh nghiệm Internet, họ sẽ cảm thấy khó khăn hơn trong việc sử dụng Internet Banking, họ sợ sự cố xảy ra khi sử dụng như đăng nhập, mất Token...nhưng nếu ngân hàng có hỗ trợ, xử lý kịp thời các vấn gặp phải họ sẽ sử dụng nhiều hơn.

Vậy giả thuyết của nghiên cứu này là:

H4c: Mối quan hệ thuận chiều giữa Điều kiện thuận lợi với Ý định sử dụng/mức độ

sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở những người lớn tuổi

H4d: Mối quan hệ thuận chiều giữa Điều kiện thuận lợi với Ý định sử dụng/mức độ

sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở những người ít kinh nghiệm Internet.

4.3.5. Mối quan hệ giữa nhân tố An toàn/ bảo mật với Ý định/mức độ sử dụng

An toàn/ bảo mật được định nghĩa là mức độ khách hàng tin tưởng rằng thông tin cá nhân được bảo mật và tài chính được an toàn khi giao dịch qua Internet Banking. Hutchinson và cộng sự (2003) cho rằng do các khách hàng đều thực hiện giao dịch qua mạng máy tính vì vậy vấn đề bảo mật, an ninh là quan trọng trong dịch vụ Internet Banking của các ngân hàng. Nghiên cứu ở Thổ Nhĩ Kỳ (Akinci và cộng sự, 2004), Đài Loan (Ming-Chi, 2009), Mỹ (Honei and Nasim, 2009), Tunisia (Wadie, 2011), Hy Lạp (Apostolos và cộng sự, 2012) cho rằng nhân tố “An toàn/ bảo mật” có ảnh hưởng đáng kể tích cực tới việc chấp nhận sử dụng dịch vụ Internet Banking của khách hàng nhưng mức độ ảnh hưởng của các nghiên cứu có sự khác nhau. Một số nghiên cứu khác xem xét theo hướng tiêu cực là sự “Cảm nhận rủi ro” của khách hàng về dịch vụ Internet Banking như Chung-Hung (2013) chỉ ra rằng nhân tố “Cảm nhận rủi ro” có ảnh hưởng tiêu cực tới ý định sử dụng Internet Banking ở Đài Loan; Emad and Michael (2009) cho rằng nhân tố “Cảm nhận rủi ro” có ảnh hưởng tiêu cực tới hành vi ý định sử dụng Internet Banking ở Jodan; Siu-Cheung (2002) nhân tố “Cảm nhận rủi ro” có ảnh hưởng tiêu cực gián tiếp tới ý định sử dụng/mức độ sử dụng Internet banking ở Hồng Kông hay Bussakorn và cộng sự (2005) thì rủi ro và bảo mật của dịch vụ Internet Banking có ảnh hưởng đáng kể tới việc chấp nhận sử dụng Internet Banking ở Thái Lan. Ở Việt Nam, khách hàng e ngại về tính bảo mật, tính an toàn và mặt khác người Việt Nam có thói quen tiêu dùng tiền mặt (nhất là những người lớn tuổi) họ cảm thấy không an toàn khi giao dịch qua ngân hàng. Qua quá trình tổng quan và nghiên cứu định tính, sẽ là hợp lý khi cho rằng nhân tố “An toàn/ bảo mật” có ảnh hưởng tích cực tới ý định sử dụng/mức độ sử dụng Internet Banking của khách hàng.

Vì vậy, giả thuyết đưa ra là:


H5a: An toàn/bảo mật có ảnh hưởng thuận chiều với Ý định sử dụng Internet Banking đối với khách hàng chưa sử dụng.

H5b: An toàn/bảo mật có ảnh hưởng thuận chiều với Mức độ sử dụng Internet Banking đối với khách hàng đang sử dụng

Ngoài ra trong nghiên cứu của Emad and Michael (2009) cho rằng giới tính, độ tuổi có ảnh hưởng tới mối quan hệ của nhân tố “Cảm nhận rủi ro” và “Ý định sử dụng Internet Banking” và mối quan hệ tác động này là mạnh mẽ hơn với nữ giới, với nhóm người lớn tuổi hơn. Apostolos và cộng sự (2012) cũng cho rằng giới tính, độ tuổi, kinh nghiệm Internet có ảnh hưởng tới cảm nhận an toàn/bảo mật dịch vụ Internet Banking và tác động tới hành vi sử dụng Internet Banking. Cụ thể, những người nữ giới, người lớn tuổi, ít kinh nghiệm Internet thì cho rằng dịch vụ Internet Banking rủi ro hơn so với nam giới, người trẻ tuổi, người nhiều kinh nghiệm Internet. Nghiên cứu của Chung-Hung (2013) về việc chấp nhận sử dụng Internet Banking ở Đài Loan cho rằng nữ giới có tác động mạnh mẽ trong mối quan hệ giữa nhân tố “Cảm nhận rủi ro” tới Ý định sử dụng Internet Banking. Giới tính (nữ giới) cũng có tác động mạnh mẽ hơn so với nam giới trong mối quan hệ giữa “Cảm nhận rủi ro và bảo mật” tới việc chấp nhận sử dụng Internet Banking ở Thái Lan (Bussakorn và cộng sự, 2005). Ở Việt Nam, như phần thực trạng Internet Banking đã cho thấy khách hàng ở Việt Nam sử dụng Internet Banking không nhiều, lý do chủ yếu là do họ sợ không an toàn bảo mật trong giao dịch, họ sợ bị rủi ro nhất là đối với người lớn tuổi, những người ít kinh nghiệm Internet. Nữ giới là người hay lo lắng, dễ phản ứng về sự xử lý hỗ trợ của ngân hàng khi họ gặp phải trong giao dịch Internet Banking nhưng nếu ngân hàng đáp ứng tốt đảm bảo an toàn trong giao dịch thì họ sẽ sử dụng và sử dụng nhiều hơn.

Vậy giả thuyết của nghiên cứu này là:

H5c: Mối quan hệ thuận chiều giữa An toàn/bảo mật với Ý định sử dụng/mức

độ sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở những người lớn tuổi.

H5d: Mối quan hệ thuận chiều giữa An toàn/bảo mật với Ý định sử dụng/mức

độ sử dụng Internet Banking mạnh hơn ở nữ giới.

4.3.6. Mối quan hệ giữa nhân tố Tiện lợi với Ý định/mức độ sử dụng

Trong một số nghiên cứu “Tiện lợi” được coi là nhân tố có ảnh hưởng tích cực tới việc chấp nhận sử dụng Internet Banking của khách hàng (người không sử dụng và sử dụng) ở Malaysia (Jayaraman và cộng sự, 2012), ở Tunisia (Wadie, 2011), ở Úc (Sharman Lichtenstein, 2006). Ở Việt Nam, đối với khách hàng trẻ tuổi, những người đi làm họ ít có thời gian đến ngân hàng để thực hiện các nhu cầu giao dịch. “Tiện lợi”


sẽ là yếu tố quyết định tới việc họ sử dụng Internet Banking. Do vậy, giả thuyết được đưa ra là nhân tố “Tiện lợi” có tác động tích cực tới Ý định sử dụng/mức độ sử dụng Internet Banking của khách hàng.

H6a: Tiện lợi có ảnh hưởng thuận chiều với Ý định sử dụng Internet Banking

đối với khách hàng chưa sử dụng

H6b: Tiện lợi có ảnh hưởng thuận chiều với Mức độ sử dụng Internet Banking

đối với khách hàng đang sử dụng

4.3.7. Mối quan hệ giữa biến kiểm soát tới Ý định/mức độ sử dụng Internet banking

Nhân khẩu học thì được thống kê trong các nghiên cứu trước đây, gồm có tuổi, giới tính, nơi ở, thu nhập, giáo dục, nghề nghiệp và đặc điểm khác. Mỗi đặc điểm nhân khẩu có ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng, thái độ sử dụng sản phẩm (Loudon and Della, 1993).

Giới tính, tuổi, thu nhập, trình độ học vấn, kinh nghiệm Internet là những yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất tới việc sử dụng Internet Banking. Internet Banking là dịch vụ ngân hàng điện tử, ứng dụng công nghệ cao của ngân hàng vì vậy người sử dụng Internet Banking thường phải là nam giới, người trẻ tuổi, người có trình độ học vấn, có thu nhập cao, có kinh nghiệm Internet. Các yếu tố này đã được đa số các nghiên cứu trước đây xem như đặc tính riêng biệt về Internet Banking (Daniel, 1999; Jayawardhena và cộng sự, 2000; Karjaluoto, 2002). Nghiên cứu này của tôi bổ sung thêm yếu tố nơi ở của khách hàng, nơi ở có sự phân biệt ảnh hưởng tới việc sử dụng Internet Banking. Bởi vì những khách hàng ở khu vực thành thị tiếp xúc với công nghệ thông tin hiện đại hơn, họ bận rộn với công việc ít có thời gian rảnh rỗi để đến giao dịch tại quầy ở ngân hàng. Khách hàng ở khu vực nông thôn mặc dù xa các ngân hàng, hoặc ít các ngân hàng để giao dịch nhưng thích giao dịch trực tiếp tại quầy bởi vì họ ít tiếp xúc công nghệ thông tin hiện đại, họ quan ngại sự an toàn/bảo mật trong giao dịch trong khi thời gian của họ rảnh rỗi hơn. Vì vậy, yếu tố thuộc về nhân khẩu học của khách hàng trong nghiên cứu này là giới tính, tuổi, trình độ học vấn, thu nhập, kinh nghiệm Internet, nơi ở sẽ được xem xét trong mối quan hệ với việc sử dụng Internet Banking của khách hàng. Cụ thể việc nghiên cứu vấn đề này trong các nghiên cứu trước là: Giới tính, độ tuổi, thu nhập, trình độ học vấn có ảnh hưởng tới việc chấp nhận sử dụng Internet Banking của khách hàng (người chưa sử dụng/đã sử dụng) (Bussakorn và cộng sự, 2005; Jun Wu, 2005; Al-Somali và cộng sự, 2008; Wadie, 2011; Donnelie and Rangarirai, 2013). Cụ thể là nam giới, người trẻ tuổi, người có trình độ học vấn cao, có thu nhập cao thì chấp nhận sử dụng Internet Banking nhiều hơn so với nữ giới, những


người lớn tuổi, có trình độ học vấn thấp, có thu nhập thấp. Số lượng khách hàng là đàn ông thì sử dụng Internet Banking nhiều hơn khách hàng nữ (Shergill and Li, 2005). Người trẻ tuổi sử dụng dịch vụ Internet Banking nhiều hơn được khẳng định trong nghiên cứu của Apostolos và cộng sự, (2012) ở Hy Lạp, Yiu và cộng sự, (2007) ở Hồng Kong. Hay Heaney and Joo-Gim (2007) nghiên cứu ở Úc cũng chỉ ra rằng thế hệ X ( 29-40 tuổi) sử dụng nhiều hơn thế hệ Y (từ 18-29 tuổi) nhưng thế hệ Y sử dụng thường xuyên hơn, sử dụng sản phẩm ảo hơn, sử dụng trong thời gian dài hơn. Ngoài ra, yếu tố kinh nghiệm Internet được các nghiên cứu trước chỉ ra là có ảnh hưởng tới việc chấp nhận sử dụng Internet Banking và có sự khác nhau giữa nhóm ít kinh nghiệm và nhiều kinh nghiệm Internet (Jun và cộng sự, 2001; Heikki và cộng sự, 2002; Bussakorn và cộng sự, 2005; Honei and Nasim, 2009)

Từ các tổng quan các nghiên cứu về sự tác động của đặc điểm nhân khẩu tới việc sử dụng Internet Banking của khách hàng, giả thuyết của nghiên cứu này là:

H7: Có sự khác biệt về ý định sử dụng/mức độ sử dụng Internet Banking theo yếu tố nhân khẩu học.

4.4. Tóm tắt chương 4

Như vậy, qua quá trình tổng quan nghiên cứu về việc sử dụng Internet Banking của khách hàng với điều kiện ở Việt Nam tác giả sử dụng lý thuyết chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT) làm lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu. Mô hình nghiên cứu đề xuất gồm có bốn biến nguyên thủy (Hiệu quả kỳ vọng, Nỗ lực lỳ vọng, Ảnh hưởng xã hội, Điều kiện thuận lợi) của Venkatest và cộng sự (2003) và thêm hai biến An toàn/bảo mật, Tiện lợi và các biến điều tiết (Giới tính, độ tuổi, kinh nghiệm Internet). Ngoài ra, biến kiểm soát (Giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, kinh nghiệm Internet, thu nhập, nơi ở) cũng được đề cập trong nghiên cứu này. Nghiên cứu đã đưa ra các giả thuyết nghiên cứu và các giả thuyết này sẽ được kiểm định thông qua phân tích dữ liệu thu thập được từ cuộc khảo sát các khách hàng chưa sử dụng và đang sử dụng Internet Banking.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/04/2022