Quan Điểm Và Định Hướng Chuyển Dịch Cơ Cấu Sử Dụng Vốn Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam Đến Năm 2025


đó, đối với khoản “doanh thu tương đối chắc chắn” (Nợ nhóm 1 - Nợ đủ tiêu chuẩn) NHTM sẽ hạch toán lãi dự thu từng kỳ - khi đó ghi Nợ TK Lãi phải thu và ghi Có TK Thu nhập lãi. Tuy nhiên, để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, NHNN trong 2 năm 2012-2013 đã liên tiếp phát hành các chính sách cho phép các NHTM tái cơ cấu lại nợ xấu, khoanh nợ, giãn nợ: QĐ780/QĐ-NHNN của NHNN ngày 23/04/2012 về khoanh nợ, giãn nợ; Công văn 7558 ngày 14/10/2013 cho phép khoanh trả lãi, thu gốc trước hạn, cơ cấu lại nợ ngắn hạn thành nợ dài hạn, tiếp tục cho vay đối với doanh nghiệp có nợ xấu. Mặc dù các chính sách này chỉ có tính chất tình thế (QĐ780 có hiệu lực đến ngày 1/4/2015), nhưng lại trở thành công cụ chính để các NHTM giảm tỷ lệ nợ xấu.

Cùng với đó, tỷ lệ lãi dự thu tăng, doanh thu lãi tăng, lợi nhuận tăng. Thực tế lại xảy ra một vấn đề không chỉ tại Vietinbank và các NHTM đó là: đến thời điểm công bố chia cổ tức cho cổ đông thì không có tiền để chia. Hơn nữa, khi ghi nhận dự thu lãi nghĩa là tài sản của Ngân hàng tăng, trong khi “tài sản phải là nguồn lực của doanh nghiệp và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai”. Nếu TSC trên bảng cân đối của các ngân hàng không những không sinh lời mà còn làm tăng thêm các chi phí phát sinh khác thì cũng có thể xem những tài sản đó như “đếm gà trước khi trứng nở” [95]. Do vậy, kết quả kinh doanh của Ngân hàng cũng chưa hoàn toàn thực chất nhất là khi thực hiện phân loại nợ và trích lập DPRR đúng, đủ và/hoặc tuân thủ thông lệ quốc tế. Khi khối lượng nợ xấu của Ngân hàng chưa xử lý được thực chất thì trong thời gian tới Ngân hàng vẫn phải đối diện với nhiều khó khăn nhất là thời điểm thực hiện tiêu chuẩn an toàn theo Basel II đang đến gần.

2.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại trên

* Nguyên nhân chủ quan

- Cơ sở cho việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn theo phương thức chủ động mới thiết lập còn nhiều hạn chế trong quá trình triển khai

Có thể thấy việc chuyển dịch cơ cấu cho vay tại Vietinbank trước năm 2013 mới thực hiện theo phương thức bị động. Thời điểm đó, Ngân hàng chủ yếu quan tâm đến quản trị từng giao dịch cho vay. Từ năm 2013, cơ cấu cho vay được hình thành và điều chỉnh chủ động hơn, thể hiện ở việc Vietinbank đã ban hành quy định về Khẩu vị RRTD, tiếp đó quy định khung quản trị RRTK, khung


quản trị RRTD,... Ngân hàng đã bước đầu xây dựng được các giới hạn cần thiết trong cơ cấu cho vay của mình. Tuy nhiên, cơ sở để thực hiện theo phương thức chuyển dịch chủ động còn một số bất cập. Cụ thể:

+ Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng vẫn thể hiện sự thích ứng trong giai đoạn ngắn hạn. Trong thời kỳ nghiên cứu đã có giai đoạn Ngân hàng thực hiện chiến lược kinh doanh “quá nóng”, xu hướng mở rộng lĩnh vực kinh doanh một cách ồ ạt, tốc độ tăng trưởng huy động vốn, cho vay, đầu tư quá cao đã để lại nhiều hệ lụy cho những năm sau này. Định hướng hoạt động xác định chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn khá rõ nhưng thực tế cơ cấu sử dụng vốn bị tác động chủ yếu từ các biện pháp điều chỉnh thị trường từ cơ quan quản lý.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

+ Từ năm 2013 một số giới hạn cho vay đã được thiết lập đầy đủ hơn, thể hiện tuyên bố khẩu vị RRTD của Ngân hàng trong hoạt động này. Các điều kiện để thiết lập, điều chỉnh chủ động chưa hoàn thiện vì vậy cơ cấu cho vay mục tiêu chưa được thiết lập một cách cụ thể vì vậy vẫn chưa thoát khỏi tình trạng còn “ngẫu nhiên” trong hình thành cơ cấu DMCV.

+ Các cơ sở hỗ trợ cho việc phân tích đo lường rủi ro danh mục tài sản còn hạn chế: Hệ thống XHTDNB của Vietinbank có vai trò quan trọng trong quản lý DMCV toàn hệ thống cũng như tại các chi nhánh. Tuy nhiên, hệ thống XHTDNB áp dụng đến cuối năm 2015 tại Ngân hàng mới là căn cứ để phân loại và đưa ra quyết định cho vay vốn chứ chưa khai thác được hệ thống này để tính toán các toán các chỉ tiêu PD và LGD cho từng đối tượng khách hàng từ đó hạn chế đáng kể đến việc khai thác hết các tính năng từ hệ thống XHTDNB trong việc tính toán số tiền trích lập DPRR và định giá khoản vay. Từ cuối năm 2015 Vietinbank đã xây dựng mô hình đo lường RRTD theo phương pháp thống kê mới. Với hệ thống này, việc thống kê để xác định chỉ tiêu PD đối với từng khách hàng sẽ giúp Ngân hàng tính được EL để ra quyết định cho vay và làm cơ sở để trích lập DPRR chính xác hơn phù hợp với chuẩn Basel II. Tuy nhiên, những khó khăn về cơ sở dữ liệu thống kê làm cản trở lớn đến việc đo lường RRTD theo phương pháp mới.

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 12

+ Trong qui định về khẩu vị RRTD ban hành theo QĐ1867/2012/NHCT của Vietinbank có đưa ra các công thức tính toán RAROC, tuy vậy chỉ tiêu này chỉ


dừng ở mức lý thuyết, mới được qui định trong văn bản chưa được triển khai trên thực tế vì việc phân bổ vốn đến mỗi mảng kinh doanh chưa được xác định cụ thể.

+ Đối với hoạt động đầu tư tài chính, cơ cấu đầu tư CK của Ngân hàng đã có sự chuyển dịch và sự thay đổi chiến lược kinh doanh rất rõ ràng, tuy nhiên, những yếu tố hợp thành phương thức chuyển dịch chủ động chưa được thiết lập một cách hệ thống như hoạt động cho vay. Hoạt động này vẫn chủ yếu phục vụ hỗ trợ cho việc quản lý vốn khả dụng, công tác quản trị danh mục đầu tư còn sơ sài, chưa được quan tâm và đầu tư thỏa đáng, chưa ban hành được khung quản trị có hiệu quả.

- Cơ cấu NVHĐ của ngân hàng huy động chủ yếu là ngắn hạn

Tỷ trọng vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm dân cư của Vietinbank cũng như các NHTM khác đã gia tăng trong thời gian gần đây nhưng vẫn ở mức thấp, chỉ khoảng 20-25% (80% số này là qua hình thức tiền gửi tiết kiệm). Tiền gửi KHDN chiếm tới gần 50%. Xu hướng chung, số lượng khách hàng là dân cư và tỷ trọng tiền gửi của dân cư trong tổng NVHĐ của Ngân hàng sẽ gia tăng, đây là nhóm khách hàng quan trọng nhất tạo ra sự ổn định về nguồn vốn. Mặc dù cơ cấu NVHĐ tại Vietinbank đã có sự chuyển dịch theo hướng bền vững hơn: TGKKH chiếm tỷ trọng thấp động từ 10-11%, vốn huy động có kỳ hạn tăng lên. Tuy nhiên, nguồn vốn T-DH chiếm tỷ trọng dao động 15%-17% [61], điều này cản trở lớn đến chuyển dịch cơ cấu cho vay, đầu tư theo thời hạn của Ngân hàng là nguyên nhân tiềm ẩn rủi ro do bất cân xứng kỳ hạn giữa cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu sử dụng vốn.

- Nguyên nhân từ hệ thống công nghệ ngân hàng

Hiện nay tại Vietinbank đã có trên 80% các nghiệp vụ ngân hàng và 85% các giao dịch của Ngân hàng với các khách hàng đã được vi tính hoá với các thiết bị thông tin hiện đại, rút ngắn đáng kể khoảng cách về trình độ công nghệ so với các ngân hàng của các nước trong khu vực và trên thế giới. Vietinbank đã triển khai thành công Dự án Hiện đại hoá Ngân hàng và Hệ thống thanh toán INCAS, đã xây dựng được một nền tảng công nghệ hiện đại gồm hệ thống ngân hàng lõi, kết nối trực tuyến từ Trụ sở chính đến các chi nhánh, điểm giao dịch trên toàn quốc. Tất cả mọi hoạt động nghiệp vụ được quản lý hạch toán và xử lý dữ liệu tập trung thay thế hệ thống quản lý phân tán và thủ công trước đây. Tuy


nhiên, để triển khai thành công Basel II, đặc biệt để lượng hóa được rủi ro danh mục tài sản đòi hỏi hệ thống cơ sở thông tin dữ liệu quản lý của bản thân Ngân hàng phải được trang bị đầu tư đồng bộ. Ngoài ra, để có thể đo lường tổng thể các loại rủi ro, đặc biệt là rủi ro thị trường thì dữ liệu về rủi ro phải được trao đổi chéo giữa nhiều NHTM với nhau. Đây là rào cản lớn đối với Ngân hàng trong điều kiện hiện nay.

- Nguyên nhân từ đội ngũ cán bộ

Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản trị ngân hàng cũng như cán bộ tác nghiệp còn nhiếu bất cập. Một trong những yêu cầu quan trọng để chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn thành công là trình độ phân tích, dự báo xu hướng thị trưởng, năng lực quản trị của đội ngũ nhân sự phải tốt. Tuy vậy, những hạn chế từ yếu tố con người không chỉ đối với Vietinbank mà còn là tình trạng chung của các NHTM Việt Nam. Trình độ phân tích và dự báo biến động thị trường còn hạn chế, những kiến thức về quản trị DMCV/đầu tư như: xây dựng, kiểm soát danh mục, tái cơ cấu hoạt động hoặc đề xuất phương án chuyển dịch cơ cấu cho vay/đầu tư,… vẫn còn mới mẻ. Rủi ro đạo đức của cán bộ Ngân hàng, công tác kiểm soát chưa hiệu quả dẫn đến những sai phạm lớn liên quan đến Ngân hàng ít nhiều đã ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng.

- Công tác dự báo, phân tích thị trường tại Ngân hàng còn hạn chế

Công tác phân tích thông tin và dự báo tại Ngân hàng còn nhiều tồn tại dẫn đến khó khăn trong việc chủ động thiết kế danh mục sử dụng vốn mục tiêu, đặc biệt là cơ cấu cho vay/đầu tư. Phân tích thông tin yếu dẫn đến dự báo kém chuẩn xác là những điểm hạn chế gần như cố hữu của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển đổi. Trước hết là khó khăn trong việc thu thập thông tin về các ngành/ lĩnh vực kinh tế để phân tích rủi ro ngành. Hiện tại, có trung tâm CIC trực thuộc NHNN cung cấp thông tin hỗ trợ cho bộ phận tín dụng của các NHTM trong quá trình thẩm định tín dụng. Tuy nhiên, thông tin do tổ chức này cung cấp thường cập nhật không kịp thời, sơ sài và dưới dạng thông tin “thô” chưa qua xử lý nên lợi ích của nó với ngân hàng không cao. Mặt khác chủ yếu là các thông tin chi tiết về khách hàng, tính tổng hợp và dự báo không có nên không phục vụ cho công tác quản trị danh mục tài sản. Từ những thực tế đó đã gây cản trở cho việc thiết kế một cơ cấu cho vay/đầu tư hiệu quả ngay từ khi hoạch định chiến lược.


Cũng do công tác dự báo chưa tốt nên dễ nảy sinh tâm lý “được đến đâu hay đến đó” trong việc thực hiện cơ cấu tài sản.

* Nguyên nhân khách quan

- Môi trường kinh tế vĩ mô diễn biến phức tạp

Giai đoạn nghiên cứu, Việt Nam trải qua những bước thăng trầm do ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính thế giới cũng như những bất ổn trong nội tại nền kinh tế. Khủng hoảng toàn cầu đã khiến thị trường tiêu thụ hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam bị thu hẹp, tình trạng nhập khẩu lạm phát tạo sức ép giảm giá đối với VND. Cùng với đó chủ trương theo đuổi chính sách tăng trưởng kinh tế cao của Nhà nước đã dẫn đến hệ lụy là lạm phát trong nước tăng cao trong năm 2008. Để chống lạm phát, hàng loạt các biện pháp mạnh được đưa ra: Chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN làm giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng cho khu vực doanh nghiệp Việt Nam. Đến năm 2009, những biện pháp “kích cầu” lại được sử dụng nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và đầu tư của nền kinh tế. Cung vốn tăng nhưng hiệu quả sử dụng vốn thấp đã một lần nữa đẩy nền kinh tế vào tình trạng lạm phát hai con số năm 2011. Chính sách thắt chặt đầu tư công và lãi suất cao để chống lạm phát, đã thực sự làm cho các doanh nghiệp gặp nghiều khó khăn do gánh nặng chi phí tài chính quá lớn cũng như thị trường tiêu thụ hàng hóa bị đóng băng. Khả năng trả nợ gốc và lãi vay ngân hàng suy giảm

Một số ngành phi sản xuất như kinh doanh BĐS, CK,... tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, sự phát triển quá nóng, thiếu kiểm soát đối với danh mục đầu tư của Nhà nước cũng như DMCV của các NHTM trong giai đoạn này đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Cụ thể những ngành phi sản xuất/nhạy cảm phát triển với tốc độ chóng mặt, chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng. Đây là nguyên nhân làm mất cân đối cung cầu trầm trọng, gây ra tình trạng suy thoái, phá sản ở các ngành này trong giai đoạn sau năm 2008 thì các Vietinbank và các ngân hàng cũng không thể tránh khỏi tổn thất nặng nề, ảnh hưởng đến sự an toàn của những năm sau này.

- Môi trường pháp lý với sự hướng dẫn và giám sát của NHNN đang trong quá trình hoàn thiện.

Trước năm 2008, ở Việt Nam chưa có một quy định cụ thể nào về giới hạn cho vay đối với ngành/lĩnh vực. Cho đến khi các NHTM ồ ạt cho vay đối với lĩnh


vực kinh doanh CK hoặc sau này là lĩnh vực BĐS hoặc đầu tư trái phiếu thì NHNN ban hành Chỉ thị 03/2007/NHNN ngày 28/5/2007 và sau này là QĐ03/2008/NHNN ngày 01/2/2008; Chỉ thị 01/2011về giới hạn cho vay phi sản xuất, các giới hạn an toàn trên DMCV mới chính thức được đề cập và được qui định tại các quy chế an toàn sau này. Bản thân qui định về giới hạn an toàn trong hoạt động đang trong quá trình hoàn thiện. Nỗ lực thiết lập lại hoạt động hệ thống TCTD theo chuẩn an toàn Basel II được thể hiện thông qua việc NHNN đã ban hành TT41/2016/NHNN. Mặc dù kỳ vọng thực hiện theo chuẩn quốc tế nhưng cũng phải phù hợp với điều kiện thực tế của các NHTM Việt Nam.

- TTTC Việt Nam chưa phát triển, tính minh bạch thị trường chưa cao

Đây là nguyên nhân lớn ảnh hưởng đến những tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank nói riêng và các NHTM Việt Nam nói chung. Đến nay, hệ thống NHTM vẫn là kênh dẫn vốn chủ yếu trên thị trường do TTCK chưa phát triển. Nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp phụ thuộc vào kênh tín dụng ngân hàng. Thực trạng này dẫn đến tỷ trọng dư nợ/tổng tài sản sẽ vẫn còn cao và khó giảm nhanh trong thời gian tới. Cùng với đó, thị trường TTLNH còn tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn, nhất là trong điều kiện nhiều NHTMCP nhỏ khó khăn thanh khoản không thực hiện các cam kết vào năm 2012, gây sự hoài nghi, mất niềm tin của các NHTM trong đó có Vietinbank khi tham gia thị trường. Cùng với đó, qui mô thị trường trái phiếu của nước ta còn nhỏ bé, trong đó cơ cấu thị trường lại tập trung vào các loại CK Chính phủ, thị trường TPDN chưa phát triển (PHỤ LỤC 06) các công cụ tài chính phái sinh được sử dụng với vai trò là công cụ đầu tư, bảo hiểm rủi ro, công cụ điều chỉnh cơ cấu tài sản của Ngân hàng chưa phát triển.

Hiện tại ở Việt Nam vẫn chưa có một thị trường mua bán nợ xấu, mới có một số chủ thể tham gia trên thị trường này là công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) trực thuộc Bộ Tài chính (thành lập năm 2003), VAMC bắt đầu hoạt động từ 2013 và các công ty mua bán nợ (AMC) trực thuộc các NHTM. Phạm vi hoạt động của các công ty này có giới hạn khác nhau: DATC chủ yếu mua và xử lý nợ tồn đọng của các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, phục vụ cho quá trình cổ phần hóa. Còn AMC Vietinbank và các NHTM, thường chỉ xử lý các khoản nợ do ngân hàng mẹ chuyển sang, với qui mô vốn nhỏ và hạn chế về nhiều mặt, cách thức chủ yếu mà họ xử lý là khởi kiện để thu nợ. Vì vậy, xử lý nợ xấu của Ngân


hàng vẫn còn nhiều khó khăn. Ngoài ra, tình bất cân xứng thông tin trên TTTC Việt Nam còn quá lớn. Trong điều kiện năng lực quản trị của các ngân hàng, các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế dẫn đến nhiều khó khăn cho các chủ thể tham gia thị trường. Thông tin không chính xác kéo theo việc phân tích, dự đoán và ra quyết định đầu tư, quyết định quản lý của Ngân hàng không hiệu quả.

- Những quy định về báo cáo thống kê còn nhiều bất cập

Việc phân loại nợ theo ngành theo qui định của NHNN cũng có nhiều thay đổi. QĐ16/2007/QĐ-NHNN ngày 18/4/2007 của NHNN ban hành chế độ Báo cáo tài chính đối các TCTD trong đó tiêu chí phân loại nợ theo ngành căn cứ vào hệ thống ngành kinh tế được quy định tại QĐ10/2007/QĐ-TTg. Tiếp đó, NHNN ban hành TT21/2010/NHNN, quy định về chế độ báo cáo thống kê đối với các đơn vị thuộc NHNN, các TCTD và chi nhánh NHNNg. Ngày 13/12/2013, NHNN ban hành TT31/2013/NHNN sửa đổi, bổ sung TT21/2010/NHNN và TT35/2015/NHNN ngày 31/12/2015. Trong những năm cần điều chỉnh cơ cấu cho vay ngành kinh tế, NHNN lại bổ sung văn bản yêu cầu các TCTD thực hiện (chẳng hạn năm 2011, văn bản điều chỉnh dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất). Hơn nữa, hệ thống báo cáo thống kê ngoài việc phục vụ mục đích thống kê tiền tệ còn phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành, giám sát an toàn hoạt động của các TCTD. Trong phạm vi ngành Ngân hàng, công tác thống kê chưa bao quát tất cả các lĩnh vực liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ, ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thống kê và hiệu quả sử dụng các dữ liệu thống kê vào những mục đích khác nhau. Số liệu báo cáo thống kê chưa thực sự thống nhất tiêu chí phân loại, vẫn còn có sự khập khiễng giữa các cơ quan cung cấp ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thông tin, ảnh hướng không nhỏ đến quản lý điều hành của Ngân hàng và các cơ quan quản lý Nhà nước.

- Nguyên nhân khác từ phía khách hàng

Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trong khối các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay có tới 97% là các DNNVV. Với hạn chế về nhiều mặt, đặc biệt là hạn chế về năng lực tài chính và năng lực QTRR. Chính vì vậy, khi nền kinh tế có diễn biến bất lợi, các doanh nghiệp đã dễ tổn thương, hoạt động không hiệu quả. Trong điều kiện nguồn vốn cho vay còn hạn chế, phụ thuộc nhiều vào kênh


tín dụng ngân hàng. Vì vậy, khi doanh nghiệp khó khăn kéo theo thực trạng nợ xấu của các ngân hàng gia tăng trong đó có Vietinbank. Trong cơ cấu cho vay của Vietinbank và các NHTMCP có vốn Nhà nước, lượng vốn đầu tư cho khách hàng là các DNNN còn chiếm tỷ trọng lớn, đặc biệt trong giai đoạn Nhà nước đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu DNNN như hiện nay đã bộc lộ rất nhiều DNNN kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ lớn. DNNN là khách hàng của NHTMNN có cùng chủ sở hữu là Nhà nước, cùng tham gia kinh doanh trong cơ chế thị trường nhưng vẫn mang đậm tính bao cấp, ỷ lại. Phần lớn các DNNN có năng lực cạnh tranh yếu, vốn tự có thấp, hoạt động chưa hiệu quả; vốn tham gia đầu tư vào các dự án chủ yếu là vốn vay ngân hàng trong khi tài sản thế chấp tại các ngân hàng không có hoặc là tài sản thuộc diện khó bán, khả năng phát mại thu hồi vốn rất thấp gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Một bộ phận khách hàng hiểu biết kiến thức pháp luật còn hạn chế, năng lực quản lý, điều hành và đạo đức kinh doanh yếu. Hiện tượng lừa đảo và gian lận trong quan hệ tín dụng cũng như hoạt động thương mại xảy ra thường xuyên.

Bên cạnh đó, có không ít trong số các khách hàng, đặc biệt các khách hàng đầu tư kinh doanh lạm dụng đòn bẩy tài chính, chấp nhận lãi suất cao miễn vay được vốn để kinh doanh, thậm chí đầu tư trái ngành hết sức mạo hiểm,... Tất cả những yếu tố đó đã góp phần kích thích các ngân hàng chạy theo thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, không quan tâm kiểm soát cơ cấu danh mục, bỏ qua nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh tiền tệ là đa dạng hóa nhằm phân tán rủi ro trên danh mục tài sản, vì vậy hậu quả phải gánh chịu rất nặng nề trong những năm sau này.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


Trên cơ sở nền tảng lý luận Chương 1, Chương 2 của Luận án NCS tập trung nghiên cứu về thực trạng chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank giai đoạn 2008-2016, đã giải quyết được những vấn đề sau:

Thứ nhất, phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn xét theo tiêu chí quy mô tiếp cận trên các nội dung: chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn theo hình thứcsử dụng vốn và nội bộ từng hình thức sử dụng vốn. Qua đó phân tích đánh giá động thái, mức độ chuyển dịch và xu hướng chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Ngân hàng chỉ được coi là hợp lý nếu đảm bảo các chỉ tiêu về an toàn và hiệu quả, Mục 2.2 NCS tính toán, xử lý dữ liệu từ đó phân tích, luận giải thực trạng chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn trên tiêu chí về chất lượng: an toàn vốn, đảm bảo thanh khoản, chất lượng tài sản và hiệu quả các hình thức sử dụng vốn.

Thứ ba, đánh giá những kết quả đạt, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Ngân hàng.

Những nghiên cứu, phân tích và đánh giá trong Chương 2 là cơ sở thực tiễn để NCS đề xuất một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank trong thời gian tới.


CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM


3.1. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025

3.1.1. Định hướng hoạt động kinh doanh của VietinBank

Trong suốt giai đoạn từ sau cổ phần hóa đến nay Ban Lãnh đạo VietinBank luôn tích cực thực hiện chủ trương của Chính phủ và NHNN trong việc tham gia tái cơ cấu và hỗ trợ các NHTM yếu kém, góp phần lành mạnh hóa, nâng cao hiệu quả và an toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Ngày 19/7/2017, Chính phủ đã ký Quyết định 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020. Mục tiêu của Đề án giai đoạn này là:

(i) Tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống; giảm số lượng TCTD yếu kém để có số lượng các TCTD phù hợp, có qui mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản

(ii) Tiếp tục lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị của các TCTD theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế; từng bước xử lý và xóa bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các TCTD có liên quan; đẩy mạnh thoái vốn ngoài ngành của các NHTM. Đến năm 2020, các NHTM cơ bản có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II, trong đó ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel II (phương pháp tiêu chuẩn trở lên); có ít nhất từ 1 đến 2 NHTM năm trong tốp 100 ngân hàng lớn nhất trong khu vực châu Á;

(iii) Phấn đấu đến năm 2020 tăng gấp 2 lần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động


dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các NHTM; hoàn thành việc niêm yết cổ phiếu của các NHTM CP trên TTCK Việt Nam;

(iv) Phấn đấu xử lý và kiểm soát nợ xấu để đến năm 2020 đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD, nợ xấu đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3% [91]

Thời gian tới các NHTM Việt Nam nói chung và VietinBank nói riêng vẫn tiếp tục đối mặt với các thách thức, khó khăn. Đó là thách thức về tăng vốn, giảm nợ xấu, cải cách toàn diện mọi mặt hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường năng lực về công nghệ nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong bối cảnh nền kinh tế thực hiện các cam kết hội nhập. Với tầm nhìn hoạt động: “Phát triển Vietinbank trở thành Tập đoàn tài chính - ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam, được xếp hạng cao trên thế giới”, phương châm hoạt động là:“Phát triển an toàn, hiệu quả, bền vững”. Mục tiêu chiến lược của Vietinbank gồm: Hoàn thiện mô hình tổ chức theo chiều dọc, mở rộng mạng lưới hoạt động; Nâng cao chất lượng dịch vụ; Nâng cao năng lực QTRR theo thông lệ quốc tế, áp dụng chuẩn mực Basel II; Tăng cường quản trị doanh nghiệp, quản trị hiệu quả hoạt động tiệm cận với thông lệ quốc tế; Đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa công nghệ thông tin; Tạo giá trị gia tăng cho cổ đông, cán bộ công nhân viên và khách hàng [93]. Ban Lãnh đạo VietinBank tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện cải cách mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực hoạt động, đảm bảo phát triển an toàn, hiệu quả, bền vững với những định hướng phát triển cụ thể như sau:

- Đổi mới mô hình hoạt động

Tiếp tục chuyển đổi mô hình hoạt động theo các khối (độc lập giữa các khối kinh doanh và khối quản lý, hỗ trợ). VietinBank tiếp tục công tác chuyển đổi mô hình theo chiều sâu, từng bước nâng cao khả năng vận hành của từng khối theo chuẩn quốc tế. Đồng thời, tăng cường tính kết nối giữa các bộ phận để hoạt động của hệ thống ổn định, đáp ứng nhu cầu phát triển. Kiện toàn và chuẩn hóa kinh doanh, cơ cấu tổ chức và điều hành theo mô hình ngân hàng hiện đại, nâng cao năng suất lao động, năng lực quản trị điều hành. Chủ động QTRR, tuân


thủ và quản lý vốn hướng tới thông lệ quốc tế, nhằm kiểm soát hiệu quả hoạt động và phân bổ nguồn lực tối ưu.

- Tăng cường và nâng cao hiệu quả tái cơ cấu hoạt động

Vietinbank duy trì thế mạnh đối với mảng KHDN lớn, đồng thời chuyển dịch cơ cấu cho vay sang các đối tượng khách hàng nhiều tiềm năng khác, tận dụng thương hiệu và mạng lưới rộng lớn để tăng cường bán chéo các sản phẩm, dịch vụ, mở rộng thị phần mảng NHBL. Bên cạnh đó, cơ cấu lại danh mục đầu tư theo hướng đa dạng hơn giữa các nhóm tài sản nhằm đạt mục tiêu kiểm soát rủi ro và tối đa hóa nguồn lực. Ngoài ra, hệ thống tiếp tục phát triển các sản phẩm đầu tư mới, áp dụng các phương pháp quản lý danh mục đầu tư, kỹ thuật quản lý hiện đại và chuyên nghiệp.

Đa dạng hóa cơ cấu NVHĐ, cơ cấu lại các hoạt động, phát triển hoạt động phi tín dụng để giảm áp lực đối với hoạt động tín dụng truyền thống. Tiếp tục phát triển mảng kinh doanh ngoại tệ, đưa ra các sản phẩm bán chéo linh hoạt, phát triển cơ sở khách hàng mới, tăng dần thị phần,… Tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử, thanh toán trực tuyến.

- Nâng cao hiệu quả QTRR

Đảm bảo mở rộng quy mô hoạt động đi đôi với nâng cao công tác kiểm soát rủi ro, kiểm soát chất lượng tài sản ở mức tốt nhất, VietinBank sẽ tiếp tục triển khai QTRR trên cơ sở tuân thủ các qui định của NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời áp dụng các chuẩn mực Basel II của Ủy ban Basel cũng như các thông lệ quốc tế khác.

- Tăng cường năng lực tài chính


Tiếp tục thực hiện chủ trương của NHNN trong việc tái cơ cấu hệ thống các TCTD, tăng cường năng lực vốn theo chuẩn Basel II, đảm bảo tuân thủ theo lộ trình yêu cầu của NHNN được quy định trong TT41/2016/NHNN. Một mặt Ngân hàng tăng quy mô vốn tự có, đồng thời điều chỉnh tốc độ tăng quy mô tài sản và cơ cấu sử dụng vốn hợp lý, nâng cao chất lượng tài sản.

- Hiện đại hóa hệ thống Công nghệ thông tin

Việc vận hành hệ thống Core Banking mới (Core Sunshine) sẽ làm gia

Xem tất cả 148 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí