Hình vẽ cho thấy rằng phân phối phần dư của mô hình hồi quy đều có hình dạng của phân phối chuẩn với độ lệch chuẩn (Std.Dev.) gần bằng 1 và giá trị trung bình của phần dư (Mean) xấp xỉ bằng 0. Vì vậy, giả định về phân phối chuẩn của phần dự được thỏa mãn.
4.2. Kết quả của mô hình
Bảng 4.6: Kết quả chạy hồi quy OLS cho mô hình
Unstandardized Coefficients | Standardized Coefficients | t | Sig. | |||
B | Std.Error | Beta | ||||
(1) | (2) | (3) | (4) | (5) | (6) | |
1 | (constant) | 45.384 | 6.160 | 7.368 | .000 | |
SIZE | .070 | .007 | .481 | 9.498 | .000 | |
GROWTH | .001 | .003 | .014 | .305 | .761 | |
LIQ | -.064 | .014 | -.221 | -4.532 | .000 | |
TANG | -0.843 | .211 | -.187 | -4.001 | .000 | |
PRO | -2.934 | .414 | -.336 | -7.083 | .000 |
Có thể bạn quan tâm!
- Công Trình Nghiên Cứu Của Nguyễn Hoàng Châu (2011) Về “Nhân Tố Tác Động Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam”
- Bảng Tóm Tắt Các Giả Thuyết Nghiên Cứu
- Kết Quả Kiểm Định Các Nhân Tố Tác Động Đến Cấu Trúc Vốn Của Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam
- Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam
- Tổng Quan Tình Hình Hoạt Động Của Các Ngân Hàng Trên Thế Giới Và Tại Việt Nam Trong Giai Đoạn 2007 – 2011
- Thực Trạng Cấu Trúc Vốn Của Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam Trong Giai Đoạn 2007–2011
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
(Nguồn: Tác giả chạy mô hình từ phần mềm SPSS 20)
Bảng 4.6 cho thấy kết quả chạy hồi quy OLS cho mô hình các nhân tố tác động đến CTV của các NHTM tại Việt Nam, cột số (4) cho thấy mối quan hệ giữa các nhân tố tác động đến CTV và cột (6) thể hiện giá trị Sig. của các nhân tố quy mô Ngân hàng (Size), tính thanh khoản (Liquidity), tài sản hữu hình (Tangibility) và tỷ suất sinh lợi (Profitability) nhỏ hơn 5% cho thấy mối quan hệ của các nhân tố này có ý nghĩa thống kê, đối với nhân tố cơ hội tăng trưởng (Growth) có giá trị lớn hơn 5% nên không có ý nghĩa thống kê.
Từ kết quả của mô hình hồi quy OLS tác giả tổng hợp các kết quả đạt được như sau:
Bảng 4.7: Kết quả nghiên cứu các nhân tố tác động đến CTV của các NHTM
Ký hiệu | Các nghiên cứu thực nghiệm | Kỳ vọng | Kết quả nghiên cứu | ||
Tương quan | Ý nghĩa | ||||
Quy mô ngân hàng | SIZE | + | + | + | 1% |
Cơ hội tăng trưởng | GROWTH | + | + | ? | |
Tính thanh khoản | LIQ | - | - | - | 1% |
Tài sản hữu hình | TANG | - | - | - | 1% |
Lợi nhuận | PRO | - | - | - | 1% |
(Nguồn: tác giả xử lý số liệu thông qua phần mềm SPSS 20)
Từ bảng tóm tắt trên cho ta kết quả nghiên cứu tổng quát sự ảnh hưởng của các biến độc lập đến CTV của các NHTM tại Việt Nam như sau:
+ Nhân tố quy mô có mối quan hệ tỷ lệ thuận với đòn bẩy tài chính của Ngân hàng tại mức ý nghĩa là 1% và là nhân tố tác động mạnh mẽ nhất lên đòn bẩy tài chính. Điều này có nghĩa rằng với quy mô Ngân hàng càng lớn thì đòn bẩy tài chính càng tăng. Như ta đã biết, Ngân hàng là một ngành đặc thù của nền kinh tế, việc huy động vốn của Ngân hàng chủ yếu dựa trên sự tín nhiệm của người dân đối với Ngân hàng đó mà không đòi hỏi cần có tài sản thế chấp. Do vậy, Ngân hàng có quy mô càng lớn sẽ càng nhận được sự tín nhiệm cao hơn. Điều này được minh chứng rò ràng việc các NHTM tại Việt Nam trong thời gian qua đã đua nhau mở rộng mạng lưới hoạt động từ thành thị đến nông thôn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch giúp các Ngân hàng gia tăng nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng một cách tối đa cũng như nâng cao giá trị thương hiệu. Kết quả này đồng nhất với kết quả nghiên cứu của Reint Gropp và Florian Heider (2009), Sajid Gul và cộng sự (2012), Khizer Ali cùng các cộng sự (2011) Mohammad Amidu (2011), Hoa Nguyen cùng Zainab Kayani (2013) khi nghiên cứu về CTV Ngân hàng tại các quốc gia trên thế giới.
+ Biến cơ hội tăng trưởng tác động cùng chiều với CTV của Ngân hàng, sự tác động này khá thấp tuy nhiên lại không có ý nghĩa về mặt thống kê. Trong khi đó một số nghiên cứu thực nghiệm tại các nước trên thế giới thì thể hiện mối tương quan với đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa thống kê như nghiên cứu của Sajid Gul cùng cộng sự (2012) về CTV tại khu vực Ngân hàng và khu vực bảo hiểm ở Pakistan, nghiên cứu của Mohammed Amidu (2007) về CTV của các Ngân hàng tại Ghana hay nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Châu (2011) về CTV của NHTM tại Việt Nam thì biến cơ hội tăng trưởng tác động cùng chiều lên CTV Ngân hàng và có ý nghĩa thống kê. Nhưng công trình nghiên cứu của Thian Cheng Lim (2012) về CTV của các công ty dịch vụ tài chính tại Trung Quốc, Naveed Ahmed và cộng sự (2010) về CTV của khu vực kinh doanh bảo hiểm lại có kết quả rằng nhân tố cơ hội tăng trưởng tác động ngược chiều lên CTV. Nguyên nhân làm cho biến cơ hội tăng trưởng không có ý nghĩa là do những nguyên nhân sau:
Trước khi thực hiện nghị định số 141 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng vốn điều lệ lên mức tối thiểu là 3.000 tỷ đồng thì đa số các NHTM tại Việt Nam đều có xuất phát điểm từ các NHTM nhỏ có tổng tài sản khá thấp, do vậy để có thể cạnh tranh khi Việt Nam tham gia WTO cho phép các Ngân hàng nước ngoài tham gia thị trường tài chính thì hầu hết các Ngân hàng đều có xu hướng tăng trưởng nhanh tổng tài sản. Để
gia tăng quy mô tổng tài sản một cách nhanh chóng, buộc các NHTM tại Việt Nam phải sử dụng nợ cao hơn, tức là tăng huy động tiền gửi từ đại bộ phận dân cư, từ các tổ chức kinh tế hay vay liên Ngân hàng nên mức độ đòn bẩy tài chính tăng cùng với sự tăng trưởng của tổng tài sản là hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu đã nêu trên.
Tuy nhiên từ năm 2010 đến 2011 khi thời hạn phải nâng vốn điều lệ của các NHTM lên 3.000 tỷ đồng sắp hết thì các NHTM lại chú trọng tăng vốn điều lệ điều này đã làm cho tỷ lệ nợ/tổng tài sản của hầu hết các Ngân hàng nhỏ có xu hướng giảm xuống và không tăng như tốc độ tăng
của tổng tài sản làm cho biến cơ hội tăng trưởng không có ý nghĩa trong giai đoạn này. Chính giai đoạn này làm cho biến cơ hội tăng trưởng không có ý nghĩa thống kê khi phân tích tác động lên CTV của NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2011.
+ Nhân tố tính thanh khoản có quan hệ ngược chiều với CTV Ngân hàng và có mức ảnh hưởng khá lớn lên đòn bẩy tài chính. Có thể nói tính thanh khoản phản ánh tình trạng “sức khỏe” của Ngân hàng trong quá trình kinh doanh. Trong thực tế đã có không ít trường hợp, một tổ chức kinh tế có tài sản nhiều, nợ rất ít nhưng hoàn toàn có thể bị phá sản do yếu tố rủi ro thanh khoản của tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Tuy nhiên, khả năng thanh khoản quá cao sẽ không có lợi cho Ngân hàng vì những khoản có thể sử dụng để thanh toán cho khách hàng thường mang lại ít thu nhập cho Ngân hàng. Ngược lại, nếu khả năng thanh khoản quá thấp có thể gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc đảm bảo khả năng thanh toán khi khách hàng có nhu cầu đồng thời làm giảm uy tín của Ngân hàng. Trong những năm qua, tình hình hoạt động tín dụng của 30 NHTM được chọn mẫu nghiên cứu đều tăng qua các năm, cụ thể như: năm 2007, tỷ lệ cho vay/huy động tiền gửi # 69,59%; năm 2008, tỷ lệ đạt khoảng # 72,29%; năm 2009 tỷ lệ này ở mức # 75,75%; năm 2010 và 2011 tỷ lệ này đều xấp xỉ # 70%. Tuy tỷ lệ này khá an toàn cho các NHTM nhưng việc cho vay vào các ngành rủi ro cao, cùng với chất lượng quản lý tín dụng chưa tốt sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của Ngân hàng. Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu của Sajid Gul, Muhammad Bilal Khan, Nasir Razzaq, Naveed Saif (2012); Naveed Ahmed, Zulfqar Ahmaed, Ishfaq Ahmed (2010); Khizer Ali, Muhammad Farhan, Akhtar, Shama Sadaqat (2011).
+ Nhân tố tài sản hữu hình tương quan nghịch biến với CTV. Kết quả này trái với lý thuyết đánh đổi và lý thuyết chi phí đại diện đã cho rằng các doanh nghiệp có tài sản cố định càng cao thì khả năng sử dụng nợ càng nhiều do có tài sản thế chấp. Nhưng kết quả nghiên cứu của tác giả lại đồng nhất với nghiên cứu của Sajid Gul, Muhammad Bital Khan, Nasir Razzad và Naveed Saif (2012) tại Pakistan;
Mohammed Amidu (2007) tại Ghana. Tuy nhiên ta thấy sự tác động của biến độc lập tài sản hữu hình đến CTV tương đối thấp chỉ có 13,56% bởi vì các NHTM tại Việt Nam hiện nay tuy chỉ còn có 5 Ngân hàng nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối còn lại hầu hết là các Ngân hàng tư nhân tự hạch toán độc lập nhưng chịu sự chi phối bởi các quy định, nghị định của Chính phủ và dưới sự kiểm soát chặt chẽ của NHNN. Điều này thể hiện khá rò trong thời gian vừa qua nhiều Ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn trong thanh khoản đã được sự bảo trợ của NHNN trong việc ổn định nguồn thanh khoản. Sự hỗ trợ này của NHNN và Chính phủ đã làm cho người dân mặc nhiên hiểu việc gửi tiền vào Ngân hàng là an toàn mà không cần sự đảm bảo nhiều bởi các tài sản. Bên cạnh đó, khi người dân gửi tiền họ thường căn cứ trên thương hiệu, cơ sở vật chất và mạng lưới của các Ngân hàng trên phạm vi cả nước mà ít quan tâm đến việc liệu các Ngân hàng đó hiện tổng tài sản có giá trị bao nhiêu chính những điều này đã làm cho nhân tố tài sản hữu hình có ảnh hưởng thấp đến CTV tại các NHTM Việt Nam.
+ Nhân tố tỷ suất sinh lợi cũng có tác động ngược chiều với đòn bẩy tài chính tại mức ý nghĩa 1%. Điều này đúng với lý thuyết trật tự phân hạng, nghĩa là các Ngân hàng có khả năng sinh lợi cao thường có khuynh hướng sử dụng nguồn lợi nhuận giữ lại để tài trợ cho các hoạt động của Ngân hàng hơn là sử dụng nguồn vốn bên ngoài nhằm tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn. Có thể nói từ năm 2008 cho đến nay, tình hình kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng các NHTM vẫn duy trì được mức tăng trưởng lợi nhuận khá tốt với trung bình tăng trưởng của 8 NHTM hàng đầu là 46% trong năm 2008, 59% trong năm 2009 và 31% trong năm 2010. Các nghiên cứu của Sajid Gul và cộng sự (2012) tại Pakistan; Reint Gropp và Florian Heider (2009) tại Mỹ và Liên minh Châu Âu; Mohammad Amidu tại Ghana (năm 2007); Nguyễn Hoàng Châu (2011) tại Việt Nam cũng đồng thuận với kết quả trên.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu đã xác định được các nhân tố tác động đến CTV của các NHTM tại Việt Nam đó là quy mô Ngân hàng, tỷ suất sinh lợi, tài sản hữu
hình và tính thanh khoản. Duy nhất chỉ có biến cơ hội tăng trưởng có tác động đến đòn bẩy tài chính nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê. Điều này đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra.
Kết luận Chương 4
Từ số liệu đã được chọn lọc và xử lý của 30 NHTM tại Việt Nam, tác giả đã tiến hành kiểm định mô hình hồi quy các nhân tố tác động đến CTV Ngân hàng. Công trình nghiên cứu đã chứng minh được các mối tương quan của các nhân tố đó với đòn bẩy tài chính và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố cũng như phát hiện nhân tố nào có tác động vượt trội lên CTV Ngân hàng. Với kết quả từ mô hình nghiên cứu có được: biến quy mô tác động cùng chiều lên CTV; trong khi đó biến tính thanh khoản, biến tài sản hữu hình và biến tỷ suất sinh lợi thì tác động ngược chiều lên CTV Ngân hàng. Riêng nhân tố cơ hội tăng trưởng không có ý nghĩa thống kê. Với kết quả nghiên cứu trong Chương này sẽ làm cơ sở để tác giả có thể đưa ra một số kết luận về CTV của các NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ cấu vốn của các NHTM, hướng tới xây dựng một hệ thống Ngân hàng hoạt động an toàn, bền vững.
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận
Có thể nói một CTV phù hợp là quyết định quan trọng với mọi doanh nghiệp không chỉ bởi nhu cầu tối đa hóa lợi ích thu được mà còn bởi tác động của quyết định này tới năng lực kinh doanh của mỗi doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt hiện nay. Đặc biệt là ngành Ngân hàng, một ngành có tầm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Do vậy, các nhà quản trị Ngân hàng cần phải có chiến lược kinh doanh hiệu quả, xây dựng một CTV phù hợp với quy mô của Ngân hàng trong từng thời kỳ. Từ kết quả nghiên cứu định lượng các nhân tố tác động lên CTV của các NHTM tại Việt Nam ở Chương trước, tác giả đưa ra một số kết luận như sau:
+ Các NHTM tại Việt Nam có tỷ lệ nợ bình quân khá cao trong cấu trúc tài sản, cụ thể đối với những Ngân hàng lớn thường có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn so với các Ngân hàng nhỏ. Trong giai đoạn từ năm 2007 – 2011 tỷ lệ đòn bẩy tài chính của các NHTM tại Việt Nam có mức bình quân là 87% và tỷ lệ này đang có xu hướng tăng qua các năm. Tuy kết quả này khá tương đồng so với một số nghiên cứu trên thế giới như: tại các Ngân hàng thuộc các quốc gia đang phát triển trong khu vực Châu Á tỷ lệ nợ bình quân # 91,96%, tại các Ngân hàng ở Pakistan tỷ lệ # 85,78%, tại các Ngân hàng ở Ghana tỷ lệ # 87% nhưng khả năng sử dụng và quản lý nợ của các NHTM tại Việt Nam còn nhiều yếu kém chính điều này đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính thanh khoản của các Ngân hàng.
+ Nhân tố quy mô được tính toán bằng logarit của tổng tài sản và kết quả cho thấy rằng quy mô Ngân hàng tác động cùng chiều với đòn bẩy tài chính. Điều này phù hợp với các lý thuyết và nghiên cứu về các nhân tố tác động lên CTV tại các Ngân hàng và công ty tài chính thuộc các Quốc gia trên thế giới. Kết quả này cũng phù hợp với thực trạng CTV của các NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,