Công Trình Nghiên Cứu Của Nguyễn Hoàng Châu (2011) Về “Nhân Tố Tác Động Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam”


chính Ngân hàng ở các nước phát triển và nước đang phát triển có phần không giống nhau tất cả.

2.1.7. Công trình nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Châu (2011) về “Nhân tố tác động đến cấu trúc vốn tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam”

Nội dung nghiên cứu: xuất phát từ các nghiên cứu khẳng định có những điểm tương đồng trong các nhân tố tác động đến CTV của Ngân hàng và của doanh nghiệp phi tài chính. Bên cạnh đó, ở Việt Nam có rất ít các nghiên cứu về CTV Ngân hàng, do vậy trên cơ sở các lý thuyết, các công trình nghiên cứu về CTV Ngân hàng trên thế giới cũng như tìm hiểu thực tiễn về NHTM Việt Nam, bài viết đã tiến hành tìm hiểu có hay không các nhân tố tác động đến CTV NHTM Việt Nam, các nhân tố này đã tác động như thế nào đến CTV Ngân hàng từ đây ước lượng mô hình để giải thích sự tương quan của các biến phụ thuộc và biến giải thích trong CTV Ngân hàng từ đó đưa ra các nhận định về CTV Ngân hàng.

Mô hình nghiên cứu: Công trình nghiên cứu này dựa trên quy mô mẫu của 39 NHTM ở Việt Nam bao gồm NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng nước ngoài. Thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến năm 2010. Bài viết đã sử dụng phương pháp hệ thống hóa dữ liệu thu thập được từ các nguồn trong nước và nước ngoài, sử dụng phương pháp nghiên cứu mô hình hồi quy bé nhất (Least Squares), phân tích và so sánh số liệu để đánh giá tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc như thế nào. Công trình nghiên cứu đã sử dụng mô hình hồi quy như sau:


L = β0 + β1PROFi,t-1 + β2Ln(SIZE)i,t-1 + β3COLLi,t-1 + β4GROWi,t + β5GDPt (1.5)

Trong đó:


Biến đại diện cho CTV là: đòn bẩy tài chính (Leverage) = 1 – (VCSH/tổng tài

sản).


Và các biến độc lập được sử dụng trong bài nghiên cứu là:


PROFi,t-1: biến tỷ suất sinh lợi được tính = lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản. SIZEi,t-1: Biến quy mô = logarit của tổng tài sản.

COLLi,t-1: biến tài sản thế chấp = (Tiền mặt, vàng bạc, đá quý + Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước + Chứng khoán kinh doanh + Các công cụ tài chính phái sinh và các tài sản tài chính khác + Chứng khoán đầu tư + Góp vốn, đầu tư dài hạn + Tài sản cố định hữu hình)/ Tổng tài sản.

GROWi,t: là biến tăng trưởng = [Tổng tài sản (năm t1) - Tổng tài sản (năm t0)]/Tổng tài sản (năm t0).

GDPt: là biến tổng sản phẩm quốc nội = Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội.

Kết quả nghiên cứu: bài nghiên cứu chứng minh rằng các biến độc lập có ảnh hưởng lên biến phụ thuộc đại diện cho CTV của Ngân hàng. Tác động cụ thể như sau: đối với các biến tỷ suất sinh lợi (Profitability), biến tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tác động ngược chiều lên đòn bẩy tài chính, đối với các biến quy mô Ngân hàng (Size) và tăng trưởng (Growth), tài sản thế chấp (Coll) tác động cùng chiều lên đòn bẩy tài chính, đối với biến tài sản hữu hình (Tangibility) không có ý nghĩa thống kê.

Tóm lại, trong giới hạn nghiên cứu kết hợp với mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã tóm tắt các kết quả về các nhân tố ảnh hưởng đến CTV Ngân hàng và các công ty tài chính như sau:


Bảng 2.1: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến CTV Ngân hàng


Nhân tố tác động lên đòn bẩy tài chính của Ngân hàng


Tác động


Các nghiên cứu thực nghiệm


Quy mô Ngân hàng (Size)


+

Reint Gropp & Florian Heider (2009); Sajid Gul, Muhammad Bilal Khan, Nasir Razzaq, Naveed Saif (2012); Mohammed Amidu (2007);

Naveed Ahmed, Zulfqar Ahmaed, Ishfaq Ahmed (2010);

Khizer Ali, Muhammad Farhan, Akhtar, Shama Sadaqat (2011); Hoa Nguyen & Zainab Kayani (2013); Thian Cheng Lim (2012); Nguyễn Hoàng Châu (2011);


-

Michele Nascimento Jucá, Almir Ferreira de Sousa & Albert Fishlow (2012);

Wald (1999); Chen (2004);


Tỷ suất sinh lợi (Profitability)


-

Reint Gropp & Florian Heider (2009); Sajid Gul, Muhammad Bilal Khan, Nasir Razzaq, Naveed Saif (2012); Mohammed Amidu (2007);

Naveed Ahmed, Zulfqar Ahmaed, Ishfaq Ahmed (2010);

Khizer Ali, Muhammad Farhan, Akhtar, Shama Sadaqat (2011); Thian Cheng Lim (2012); Hoa Nguyen & Zainab Kayani (2013); Nguyễn Hoàng Châu (2011);


Tài sản hữu hình (Tangibility)


-

Sajid Gul, Muhammad Bilal Khan, Nasir Razzaq, Naveed Saif (2012); Naveed Ahmed, Zulfqar Ahmaed, Ishfaq Ahmed (2010); Mohammed Amidu (2007); Khizer Ali, Muhammad Farhan, Akhtar, Shama Sadaqat

(2011);

+

Thian Cheng Lim (2012);


Cơ hội tăng trưởng (Growth)

+

Sajid Gul, Muhammad Bilal Khan, Nasir Razzaq, Naveed Saif (2012); Mohammed Amidu (2007); Nguyễn Hoàng Châu (2011);


-

Naveed Ahmed, Zulfqar Ahmaed, Ishfaq Ahmed (2010); Michele Nascimento Jucá, Almir Ferreira de Sousa & Albert Fishlow (2012); Thian

Cheng Lim (2012);

Tính thanh khoản (Liquidity)


-

Sajid Gul, Muhammad Bilal Khan, Nasir Razzaq, Naveed Saif (2012);

Naveed Ahmed, Zulfqar Ahmaed, Ishfaq Ahmed (2010); Khizer Ali, Muhammad Farhan, Akhtar, Shama Sadaqat (2011);

Tấm chắn thuế phi nợ (NDTS)


-

Sajid Gul, Muhammad Bilal Khan, Nasir Razzaq, Naveed Saif (2012); Khizer Ali, Muhammad Farhan, Akhtar, Shama Sadaqat (2011); Thian

Cheng Lim (2012);

Thuế (Tax)

+

Mohammed Amidu (2007); Hoa Nguyen & Zainab Kayani (2013)

Rủi ro tài sản (Asset Risk)

-

Reint Gropp & Florian Heider (2009); Hoa Nguyen & Zainab Kayani (2013)

Tổng sản phẩm

quốc nội (GDP)

-

Nguyễn Hoàng Châu (2011); Hoa Nguyen & Zainab Kayani (2013)

Tài sản thế chấp (Collateral)

+

Reint Gropp & Florian Heider (2009); Nguyễn Hoàng Châu (2011);

-

Hoa Nguyen & Zainab Kayani (2013)

Chi trả cổ tức

(Dividend)

-

Reint Gropp & Florian Heider (2009); Hoa Nguyen & Zainab Kayani

(2013)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 5

Bảng 2.1 cho thấy một số nhân tố có chiều tác động ngược nhau lên CTV của Ngân hàng ở các mô hình nghiên cứu tại các Quốc gia khác nhau. Do đó, tác giả sẽ không sử dụng tất cả kết quả của các nghiên cứu trên mà sẽ căn cứ vào tình hình


thực tế của nền kinh tế Việt Nam cũng như tính minh bạch trong việc công bố thông tin của các Ngân hàng Việt Nam chưa cao để lựa chọn một số nhân tố phù hợp như: quy mô Ngân hàng (Size), cơ hội tăng trưởng (Growth opportunities), tính thanh khoản (Liquidity), tài sản hữu hình (Tangibility) và tỷ suất sinh lợi (Profitability) để phân tích và đưa vào mô hình định lượng nhằm xem xét đánh giá cho các NHTM tại Việt Nam.


2.2. Các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Để tối đa hóa giá trị lợi nhuận cũng như nâng cao giá trị của doanh nghiệp, các Giám đốc tài chính luôn quan tâm đến các nhân tố nào đã ảnh hưởng mạnh đến CTV để từ đó hoạch định được những chiến lược kinh doanh phù hợp cho doanh nghiệp mình. Theo các nghiên trên thế giới, có rất nhiều nhân tố mang tính vi mô và vĩ mô tác động đến CTV của một doanh nghiệp.

Và NHTM thực chất cũng hoạt động như một doanh nghiệp, đồng thời các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm cho thấy rằng các nhân tố ảnh hưởng đến CTV của các loại hình doanh nghiệp có những nét tương đồng.

Như chúng ta đã biết, thị trường tài chính của Việt Nam phát triển chưa vững mạnh, mọi hoạt động đều dưới sự giám sát chặt chẽ của hệ thống NHNN Việt Nam, tính minh bạch thông tin của các Ngân hàng chưa cao nên đề tài nghiên cứu của tác giả chỉ sử dụng những biến phù hợp với đặc điểm của các NHTM tại Việt Nam cũng như ứng dụng mô hình nghiên cứu của Sajid Gul và các cộng sự (2012) để nghiên cứu.

Như vậy, các nhân tố quyết định đến CTV được tác giả nghiên cứu trong đề tài này bao gồm: quy mô ngân hàng, cơ hội tăng trưởng, tính thanh khoản, tài sản hữu hình, tỷ suất sinh lợi. Dưới đây là sơ đồ tóm tắt như sau:


Quy mô

ngân hàng

Tỷ suất

sinh lợi

Đòn bẩy tài

chính

Cơ hội tăng

trưởng

Tài sản

hữu hình

Tính thanh

khoản

2.2.1. Nhân tố Quy mô (Size)

Có nhiều kết quả tổng hợp giữa mối quan hệ của tỷ lệ quy mô và đòn bẩy tài chính. Theo lý thuyết đánh đổi, quy mô doanh nghiệp tác động cùng chiều lên đòn bẩy tài chính. Theo Titman và Wessels (1988) người đã nghiên cứu lý thuyết đánh đổi về CTV cho rằng các công ty lớn thì có cơ hội phá sản thấp cũng như có sự đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh và vì thế xác suất phá sản là rất thấp, đây là điều kiện để cho các nhà đầu tư hay người cho vay ưu tiên cung cấp vốn hơn là so với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Tương tự như vậy, theo lý thuyết chi phí đại diện mối liên hệ giữa quy mô với tỷ lệ nợ là cùng chiều. Trái ngược lại, lý thuyết trật tự phân hạng dự đoán mối quan hệ giữa quy mô và mức độ sử dụng nợ của công ty có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.

Ngành Ngân hàng cũng vậy, rò ràng quy mô Ngân hàng càng lớn, có uy tín trong kinh doanh thì càng có nhiều cơ hội trong huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau điều này thể hiện rủi ro phá sản là rất thấp. Một số nghiên cứu nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới đã xem xét tới nhân tố quy mô Ngân hàng như Octavia và


Rayna Brown (2008) tại các nước đang phát triển; Gropp và Heider (2009) tại các nước phát triển cũng khẳng định rằng quy mô có tác động cùng chiều lên đòn bẩy tài chính.

2.2.2. Nhân tố cơ hội tăng trưởng (Growth opportunities)


Theo lý thuyết trật tự phân hạng của Myer và Majluf (1984) đã tiên đoán rằng cơ hội tăng trưởng có mối tương quan cùng chiều với đòn bẩy tài chính. Các công ty đang tăng trưởng sẽ sử dụng nợ nhiều hơn trong CTV của họ, bởi vì nguồn vốn nội bộ không đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư và mở rộng kinh doanh. Để có vốn tài trợ cho các dự án, sử dụng cho việc nghiên cứu cũng như phát triển kinh doanh và với mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn của các công ty này, buộc các công ty phải tìm kiếm nguồn vốn bên ngoài. Điều này có nghĩa rằng công ty đang gia tăng tỷ lệ nợ để mở rộng hoạt động kinh doanh cũng như tài trợ cho các dự án đầu tư tiềm năng của họ. Đồng thuận với quan điểm của Myer và Majluf là các tác giả Shah và Hijazi (2004), Cai et al. (2008), Kôrner (2007), Joy Pathak (2010)...

Theo lý thuyết đánh đổi và lý thuyết chi phí đại diện đã dự báo rằng tác động của biến tăng trưởng và đòn bẩy tài chính thì tương quan ngược chiều nhau bởi vì khi một công ty có đòn bẩy tài chính cao thì phần lợi nhuận đạt được từ các dự án đầu tư này sẽ có lợi cho các chủ nợ hơn là cho các cổ đông. Do vậy, các cổ đông sẽ có khuynh hướng đầu tư vào những dự án được tài trợ bằng VCSH hơn là tài trợ bằng nợ. Một số nghiên cứu thực nghiệm của Titman & Wessel (1988) và Rajan & Zingales (1995), Gaud và các cộng sự (2005) cũng cho rằng cơ hội tăng trưởng có quan hệ tỷ lệ nghịch với đòn bẩy tài chính.


2.2.3. Nhân tố tính thanh khoản (Liquidity)


Tính thanh khoản và đòn bẩy tài chính có mối tương quan ngược chiều nhau bởi vì tính thanh khoản của công ty cao có thể tạo ra dòng tiền mặt phù hợp và vì thế khi dòng tiền mặt vượt quá có thể được sử dụng để tài trợ cho hoạt động đầu tư và hoạt động điều hành. Đồng thuận với quan điểm này là các nghiên cứu của Naveed et al. (2010), Joy Pathak (2010)... Nhưng theo lý thuyết đánh đổi, có mối tương quan cùng chiều nhau giữa đòn bẩy tài chính và tính thanh khoản, lý do là các công ty có khả năng thanh khoản cao có thể chi trả cho các khoản nợ ngắn hạn đúng hẹn khi sử dụng đòn bẩy tài chính cao trong định hướng CTV của công ty.

2.2.4. Nhân tố tỷ suất sinh lợi (Profitability)


Có thể nói lợi nhuận là kết quả cuối cùng của quá trình kinh doanh, đây là phần lợi ích để phân phối cho các chủ nợ, chủ sở hữu của Ngân hàng cũng như đầu tư mở rộng kinh doanh trong tương lai. Có rất nhiều bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa khả năng sinh lợi và đòn bẩy tài chính. Theo Myer và Majhuf (1984) cho rằng các công ty sinh lợi sẽ ưu tiên đầu tiên trong việc sử dụng quỹ nội bộ so với quỹ bên ngoài để tái đầu tư, sau đó mới sử dụng đến nợ và phát hành VCSH khi cần thiết hay nói khác hơn là những công ty có khả năng sinh lợi cao sẽ ít sử dụng nợ vay với điều kiện là đầu tư và cổ tức cố định. Như vậy, tỷ suất sinh lợi sẽ tương quan ngược chiều với đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, theo lý thuyết trật tự phân hạng về CTV cho rằng các công ty có lợi nhuận cao thì thường sử dụng nợ nhiều hơn để được hưởng lợi từ tấm chắn thuế của nợ.

Các nghiên cứu thực nghiệm của Frank và Goyal (2004), Rajan và Zingales (1995), Titman và Wessels (1988), Sajid Gul và các cộng sự (2012), Khizer Ali và cộng sự (2011)… cũng cho thấy lợi nhuận có mối quan hệ ngược chiều với đòn bẩy tài chính.


2.2.5. Nhân tố tài sản hữu hình (Tangibility of assets)


Tài sản hữu hình là những tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp mang thuộc tính vật chất được thể hiện dưới hình thức: nhà xưởng, đất đai, máy móc, dụng cụ, thiết bị,…Đây là những tài sản có khả năng đáp ứng nhu cầu thế chấp cho các khoản nợ của doanh nghiệp.

Theo lý thuyết đánh đổi cho rằng các công ty nắm giữ tài sản hữu hình càng lớn thì càng dễ dàng trong việc tiếp cận các nguồn tài trợ bằng nợ vì đã có tài sản thế chấp đảm bảo cho các khoản vay, điều này sẽ giảm thiểu được những thiệt hại cho các cổ đông trong trường hợp công ty bị phá sản. Lý thuyết chi phí đại diện cũng cho rằng chi phí đại diện của nợ sẽ thấp đối với các công ty có nhiều tài sản hữu hình. Jensen và Meckling (1976) cho rằng tài sản hữu hình sẽ làm giảm sự bất cân xứng về thông tin vì những tài sản này có thể sử dụng làm tài sản thế chấp, giảm rủi ro gánh chịu chi phí đại diện của khoản nợ người cho vay trong trường hợp thiếu thông tin hay mâu thuẫn lợi ích với cổ đông công ty. Các công ty không có tài sản thế chấp sẽ có chi phí cao khi sử dụng nợ để tài trợ. Vì vậy, một tỷ lệ tài sản hữu hình cao sẽ có tỷ số nợ cao. Các kết quả nghiên cứu đã đồng thuận mối quan hệ đồng biến giữa tài sản hữu hình và đòn bẩy tài chính như nghiên cứu của Marsh (1982), Titman và Wessels (1988), Rajan và Zingales (1995), Shah và Khan (2007), Thian Cheng Lim (2012)…

Trong khi đó, theo lý thuyết trật tự phân hạng cho rằng tài sản hữu hình có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với đòn bẩy tài chính. Công ty có tài sản hữu hình lớn sẽ có vấn đề bất cân xứng thông tin ít hơn và dẫn đến chi phí cho VCSH sẽ thấp hơn. Vì vậy, các công ty sẽ lựa chọn phát hành VCSH nên sẽ sử dụng ít nợ hơn. Một số nghiên cứu cũng đã cho rằng biến tài sản hữu hình và đòn bẩy tài chính có mối tương quan ngược chiều nhau như nghiên cứu của Sajid Gul và các cộng sự (2012), Mohammed Amidu (2007).

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 03/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí