Đồ thị 3.1: Tăng trưởng tổng tài sản của 25 NHTMCP Việt Nam từ năm 2007 đến 2014
Đơn vị tính: Tỷ VNĐ
Tổng tài sản
350000
300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
Năm
2013
Năm
2014
Nguồn:Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tài chính của 25 NHTMCP Việt Nam
Quy mô tổng tài sản của các NHTMCP tăng trưởng vượt bậc là do quy mô hoạt động của nhiều ngân hàng đã được mở rộng, thặng dư cổ phiếu sau đợt IPO ra công chúng từ ba NHTMCP Vietcombank, Vietinbank, BIDV hoặc phát hành thêm cổ phiếu hay gia tăng quỹ dự trữ bổ sung Vốn điều lệ từ lợi nhuận của các NHTMCP. Một nguyên nhân nữa đã làm cho tổng tài sản của các NHTMCP tăng lên đó là sự bùng nổ mạng lưới chi nhánh hoạt động của một số ngân hàng có quy mô lớn. Tuy nhiên, xét về tổng tài sản của từng ngân hàng thì có sự phân bố không đồng đều giữa các ngân hàng. Tính đến năm 2014, trong 25 NHTMCP được khảo sát thì tổng tài sản của 10 NHTMCP có tổng tài sản lớn nhất (gồm: Vietinbank, BIDV, Vietcombank, MB, Sacombank, ACB, Techcombank, SHB, VPB, EIB) chiếm 80,33% và 15 ngân hàng còn lại chỉ chiếm 19,67% trong tổng tài sản của 25 ngân hàng.
3.2.2 Đánh giá về tổng nợ
Nợ của các NHTMCP bao gồm: nợ Chính Phủ và NHNN, tiền gửi và tiền vay của các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của khách hàng, công cụ tài chính phái sinh,
vốn tài trợ, ủy thác, đầu tư cho vay tổ chức tín dụng chịu rủi ro, phát hành giấy tờ có giá và các khỏa nợ khác. Trong đó chủ yếu là các khoản tiền gửi và tiền vay của các tổ chức tín dụng khác và tiền gửi của khách hàng. Nợ của các NHTMCP luôn chiếm tỷ lệ cao trên 90% trong tổng nguồn vốn, tương ứng với tỷ lệ vốn chủ sở hữu chỉ chiếm nhỏ hơn10% chứng tỏ khả năng tự chủ về tài chính của các ngân hàng thấp, rủi ro thanh khoản cao do tài sản chủ yếu được tài trợ bằng nợ.
Đồ thị 3.2: Tăng trưởng tổng nợ của 25 NHTMCP Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2014
Đơn vị tính: Tỷ VNĐ
Tổng nợ
4000000
3000000
2000000
1000000
0
Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Nguồn:Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tài chính của 25 NHTMCP Việt Nam
Theo Bảng 3.2 và Đồ thị 3.2 ta thấy xét về số tuyệt đối thì tổng nợ của các NHTMCP Việt Nam luôn tăng qua các năm, năm sau tăng hơn năm trước. Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng trưởng của tổng nợ giữa các năm thì tốc độ tăng không đồng đều. Cụ thể, năm 2008 tổng nợ của các NHTMCP đạt 1.119.853 tỷ đồng tăng 17.52% so với năm 2007; năm 2009 tổng nợ đạt 1.541.081 tỷ đồng, tăng 37,61% so
với năm 2008; năm 2010 tổng nợ đạt 2.245.314 tăng 45,7% so với năm 2009. Tuy nhiên, sau năm 2010 đến năm 2014, tốc độ tăng trưởng của tổng nợ giảm đáng kể, đặc biệt năm 2012 tăng 3,3% so với năm 2011, năm 2013 tăng 10,12% so với năm 2012; và năm 2014 tăng 16,12% so với năm 2013. Nguyên nhân của thực trạng này
là do trong giai đoạn 2010 - 2013, lãi suất cơ bản liên tục được giảm xuống, các NHTMCP gặp khó khăn trong tăng trưởng huy động vốn. Sự tăng trưởng này một mặt cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng ngày càng tốt hơn do đã tăng được doanh số huy động. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tốt từ việc tăng trưởng huy động vốn của các ngân hàng thì việc tăng nợ có những vấn đề cần giải quyết:
- Tình hình huy động vốn từ năm 2007 đến nay diễn ra vô cùng phức tạp, các NHTMCP liên tục tăng huy động vốn bằng các hình thức khuyến mãi và thỏa thuận lãi suất làm cho tình hình huy động vốn trên thị trường hỗn loạn. Một nghịch lí đang diễn ra trên thị trường là tín dụng chậm, doanh nghiệp khó vay trong khi huy động vốn tăng cao và nhiều ngân hàng vẫn đang tung ra nhiều chương trình khuyến mãi để thu hút tiền gửi, thậm chí lách trần lãi suất. Nguồn vố này ngân hàng đang huy động để làm gì vẫn là câu hỏi được nhiều người quan tâm.
- Việc tăng nợ và sử dụng các nguồn vốn này vào các mục đích kinh doanh kém hiệu quả của một số ngân hàng đang đẩy các ngân hàng vào tình trạng than khoản yếu kém. Do đó, các ngân hàng đang tái CTTC nhằm lựa chọn cho mình một CTTC hợp lý trong thời điểm hiện nay.
3.2.3 Đánh giá về vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm: Vốn điều lệ, các quỹ và lợi nhuận giữ lại. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng đều cố gắng tăng nguốn VCSH của mình để giảm bớt rủi ro thanh khoản bằng cách huy động thêm vốn góp của các cổ đông và giữ lại lợi nhuận của những năm trước.
Theo Nghị định số 141/2006/NĐ – CP của Chính Phủ về mức vốn pháp định đối với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam thì đến hết năm 2010, tất cả NHTM đều phải đạt vốn pháp định tối thiểu 3,000 tỷ đồng. Điều này đã khiến cho các NHTMCP trong những năm gần đây đã phải tăng vốn một cách ồ ạt để có thể đạt mức vốn tối thiểu. Ngoài ra, VCSH của các NHTMCP tăng nhanh từ năm 2008 đến năm 2011 là nhờ có nguồn vốn thặng dư từ cổ phiếu, lợi nhuận tăng trưởng cao trong giai đoạn này đã làm cho quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và lợi nhuận giữ lại tăng lên.
Đồ thị 3.3: Tăng trưởng vốn chủ sở hữu của 25 NHTMCP Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2014
Đơn vị tính: Tỷ VNĐ
Vốn chủ sở hữu
350000
300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Nguồn:Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tài chính của 25 NHTMCP Việt Nam
Số liệu ở Bảng 3.2 cho thấy các NHTMCP đã có quy mô VCSH không ngừng tăng qua các năm, VCSH năm 2014 đã tăng gấp 2,75 lần so với năm 2007 chính điều này đã làm tăng năng lực tài chính cho các ngân hàng. Tuy nhiên, việc bắt tăng vốn điều lệ lên một cách đột ngột của NHNN mà không có một lộ trình đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Nhằm đáp ứng những yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu, nhiều NHTMCP đã thực hiện các biện pháp đầu tư lòng vòng giữa các công ty con, quỹ đầu tư, NHMTCP khác dưới hình thức đầu tư góp vốn cổ phần nhằm tăng vốn điều lệ “ảo”. Hệ quả là nhiều NHTMCP phải tăng vốn điều lệ gấp 2- 3 lần trong một thời gian nhất định cùng với sức ép chia cổ tức cho cổ đông rất lớn, quy mô dư nợ cho vay cũng tăng, do đó nhiều NHTMCP đã đẩy dư nợ lên 40% thậm chí 70-80% mỗi năm nhưng không đảm bảo an toàn, khiến cho vốn điều lệ , VCSH - nguồn vốn có nhiệm vụ là tấm đệm cho hoạt động kinh doanh tài chính của ngân hàng – trở nên quá mỏng. Khi một hoặc vài NHTMCP gặp vấn đề trầm trọng như mất thanh khoản thì nga lập tức sẽ ảnh hưởng tới sự an toàn của các NHTMCP khác, đồng thời tạo áp lực rủi ro lớn lên toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam.
3.2.4 Đánh giá về lợi nhuận sau thuế
Đồ thị 3.4: Tăng trưởng Lợi nhuận sau thuế của 25 NHTMCP Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2014
Đơn vị tính: Tỷ VNĐ
Lợi nhuận sau thuế
35000
30000
25000
20000
15000
10000
5000
0
Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Nguồn:Tác giả tổng hợp từ Báo cáo tài chính của 25 NHTMCP Việt Nam
Theo bảng 3.2 và đồ thị 3.4, nhìn chung giai đoạn 2007- 2011, lợi nhuận sau thuế của các NHTMCP tăng nhanh và ổn định, đặc biệt năm 2009 tăng 52,36% so với năm 2008 và năm 2010 tăng 39,6% so với năm 2009, năm 2011 tăng 21,23% so với năm 2010. Tuy nhiên, kết quả kinh doanh trong giai đoạn này không thực chất, lợi nhuận của các NHTMCP Việt Nam có khả năng suy giảm nhanh trong thời gian tới. Bởi vì trong cơ cấu thu nhập của các NHTMCP chỉ ra, lãi của hầu hết các ngân hàng chủ yếu đến từ hoạt động tín dụng. Thế nhưng, trong bối cảnh nợ xấu gia tăng và tín dụng tăng trưởng âm thì nhiều ngân hàng chắc chắn sẽ phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ. Đó là chưa kể, nếu thực hiện Quyết định số 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012 của Thống đốc NHNN về việc phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ và trích lập dự phòng rủi ro đúng, đủ và/ hoặc tuân thủ
thông lệ quốc tế, đồng thời hạch toán theo chuẩn mực kế toand quốc tế thì hiệu quả kinh doanh của các NHTMCP Việt Nam còn thấp hơn nữa.
Thật vậy, giai đoạn từ 2012 – 2014, lợi nhuận sau thuế của các NHTMCP Việt Nam giảm trung bình trên 38% so với giai đoạn 2007 – 2011, cụ thể năm 2012 mức tăng của lợi nhuận sau thế là – 22,89% so với năm 2011, năm 2013 mức tăng của lợi nhuận sau thuế là – 5,74% so với năm 2012, năm 2014 lợi nhuận sau thuế tăng nhẹ trở lại là 6,67% so với năm 2013. Nguyên nhân lợi nhuận giảm đáng kể là chủ yếu do chi phí rủi ro tín dụng và chi phí hoạt động tăng.
3.3 Đánh giá chung về thực trạng cấu trúc tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
3.3.1 Những kết quả đạt được
Qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống NHTMCP Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Sự an toàn, ổn định của hệ thống NHTMCP đóng vai trò quyết định đối với sự ổn định hệ thống tài chính và là một trong những yếu tố quan trọng của nền kinh tế vĩ mô. Hệ thống các NHTMCP cung cấp một khối lượng vốn to lớn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo công ăn việc làm và góp phần thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước trong những năm qua. Đồng thời, ngân hàng cũng là một trong những ngành tiên phong về mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế. Một số kết quả chủ yếu đạt được như sau:
Qua phân tích thực trạng cấu trúc tài chính của các NHTMCP Việt Nam cho thấy trong giai đoạn từ năm 2007 – 2014 quy mô VCSH tăng chậm nhưng quy mô tổng tài sản của các NHTMCP lại tăng nhanh chóng trong nhiều năm do các ngân hàng thực hiện chính sách tín dụng mở rộng. Kết quả của quá trình tăng trưởng tín dụng nóng là hệ số đòn bẩy tài chính tăng lên trong khi hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR của các ngân hàng được đảm bảo qua các năm. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN đã quy định việc các NHTM phải nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của mình từ 8% lên 9%. Phần lớn các NHTMCP đã đảm bảo được điều kiện này. Rò ràng, khi kinh tế
xuất hiện những bất ổn, các NHTMCP có thể gặp những khó khăn hơn rất nhiều so với trong giai đoạn bình thường của nền kinh tế. Việc nâng cao mức an toàn vốn tương tự như một “tấm đệm” giúp các NHTMCP chống các “cú sốc” từ môi trường kinh doanh biến động.
Xét về VCSH của các NHTMCP tăng nhanh chóng là để đáp ứng về các chỉ tiêu an toàn vốn theo quy định của NHNN. Giai đoạn 2007 đến 2014, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn nhưng các NHTMCP vẫn cố gắng tăng vốn điều lệ của mình để đảm bảo mức vốn pháp định theo Nghị định số 141/2006/NĐ – CP và Nghị định số 10/2011/NĐ – CP. Mặc dù đến cuối năm 2011, các NHTMCP đã đáp ứng được quy định vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng nhưng xét về quy mô thì chỉ có 06 NHTMCP có mức vốn điều lệ trên 10.000 tỷ đồng và 08 ngân hàng có mức vốn điều lệ từ 5.000 tỷ đồng đến 10.000 tỷ đồng, số còn lại có mức vốn nhỏ hơn 5.000 tỷ đồng.
Các NHTMCP Việt Nam đã phát huy được ưu thế việc sử dụng nợ, làm cho năng lực tài chính và quy mô hoạt động của các NHTMCP tăng nhanh[8].Tổng dư nợ tín dụng của các NHTMCP Việt Nam đến năm 2014 đạt gần 2.207.030 tỷ đồng, 3,86 lần so với năm 2007. Tổng vốn huy động được một khối lượng vốn khổng lồ để cấp tín dụng cho nền kinh tế. Tổng vốn huy động từ nền kinh tế đến năm 2014 đạt 2.926.808 tỷ đồng, gấp 3,76 lần năm 2007. Hàng ngàn tỷ đồng vốn tín dụng được đầu tư cho phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội và cho vay nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó, hệ thống các NHTMCP Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, cải thiện an sinh xã hội. Với quy mô và vai trò quan trọng như vậy, sự an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống các TCTD là nhân tố quan trọng đối với sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia và kinh tế vĩ mô.
8 Tổng hợp từ Báo cáo tài chính của 25 NHTMCP Việt Nam trong giai đoan 2007 - 2014
3.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
Trong cơ cấu tổng tài sản thì dư nợ cho vay chiếm tỷ trọng lớn, tập trung vào cho vay bất động sản
Dư nợ là khoản ngân hàng cho vay, khoản cho vay chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng tài sản. Chỉ tiêu này lớn cho thấy khả năng cho vay của ngân hàng là rất tốt, tuy nhiên tỷ suất này quá lớn dẫn đến khả năng thanh khoản của các NHTMCP giảm. Xét về tổng tài sản của các NHTMCP trong giai đoạn 2007- 2014 thì có sự mở rộng quy mô mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng tổng tài sản trung bình khoảng 45%/năm, trong đó cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản.
Bảng 3.3 Dư nợ cho vay trong tổng tài sản của 25 NHTMCP Việt Nam từ năm 2007-2014
Đơn vị tính:Tỷ đồng,%
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | |
Dư nợ cho vay | 571.363 | 650.346 | 930.705 | 1.262.787 | 1.475.865 | 1.663.565 | 1.911.705 | 2.207.030 |
Tổng tài sản | 1.043.651 | 1.231.056 | 1.677.160 | 2.432.517 | 2.941.499 | 3.063.953 | 3.385.424 | 3.892.242 |
Dư nợ cho vay/Tổng tài sản | 54.75% | 52.83% | 55.49% | 51.91% | 50.17% | 54.29% | 56.47% | 56.70% |
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tô ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 2
- Sự Cần Thiết Nghiên Cứu Cấu Trúc Tài Chính Của Các Ngân Hàng
- Đề Xuất Mô Hình Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Tài Chính Của Nhtmcp Việt Nam
- Huy Động Vốn Trong Tổng Nợ Của 25 Nhtmcp Việt Nam Từ Năm 2007-2014
- Kết Quả Thống Kê Mô Tả Các Biến Độc Lập Và Phụ Thuộc
- Giải Pháp Vận Dụng Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Hoàn Thiện Cấu Trúc Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Nguồn: Tính toán từ các Báo cáo tài chính của 25 NHTMCP Việt Nam
Qua số liệu cho thấy dư nợ tín dụng trên tổng tài sản của các NHTMCP Việt Nam nhỏ hơn 60%. Điều này cho thấy phần lớn nguồn vốn của các NHTMCP huy động được chủ yếu là tài trợ cho hoạt động cho vay. Hơn nữa, theo báo cáo thuyết minh của các NHTMCP Việt Nam[9], dư nợ để đầu tư kinh doanh bất động sản chiếm 10% tổng dư nợ tài trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước gần 19% tổng dư nợ. Mặt khác các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản khoảng 60% tổng dư nợ. Với tình hình đóng băng của thị trường ất động sản hiện nay dẫn đến khả năng thu hồi vốn cũng như khả năng thanh khoản của các tài sản thế chấp là rất khó. Do vậy, dư nợ có xu hướng giảm là hợp lý trong giai đoạn hiện nay.
9 Tổng hợp từ Báo cáo tài chính của 25 NHTMCP Việt Nam trong giai đoan 2007 - 2014